top of page

TÍNH NỘI TẠI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

  • Ảnh của tác giả: Admin
    Admin
  • 26 thg 5
  • 6 phút đọc

Quý thầy cô thân mến!


Nếu quý thầy cô còn nhớ thì trong tuần trước tôi có lấy một ví dụ giữa tôi và con kiến: Trong khi tôi quan sát nó di chuyển từ điểm A đến B và C, rồi sau đó tôi có đưa tay ra chặn nó lại, để nó đi về một hướng khác...; ví vụ này đã giải thích về sự hiện hữu của tôi là song song với sự hiện diện của con kiến, nhưng tôi hoàn toàn thuộc về một chiều kích không gian và thời gian khác với con kiến. Đồng thời, hành động can thiệp của tôi vào sự di chuyển của con kiến cũng chứng minh tính “nội tại” của tôi trong không gian và thời gian của con kiến. Cũng vậy, trong Chương 15 chúng ta đã thảo luận về tính nội tại của Đức Chúa Trời trong cách tương tự như thế.


Trước hết, chúng ta nói về những quan điểm phiếm thần của các hệ thống triết học Hy-lạp, các triết học trong Ấn-giáo-cho rằng Ngài là một quy luật tối thượng hoặc một năng lực tối cao nhưng Ngài là phi-ngã và tách rời khỏi thế giới này. Nghĩa là những quan điểm này phủ nhận thân vị của Đức Chúa Trời và cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận tính nội tại của Đức Chúa Trời. Trong khi, một vài trường phái thần học-điển hình như Paul Tillich vừa công nhận vừa phủ nhận tính nội tại của Đức Chúa Trời. Ông không công nhận tính nội tại của của Đức Chúa Trời khi cho rằng Ngài là nền tảng cho sự hiện hữu của mọi vật (không có Chúa thì không có điều gì hiện hữu). Nói như thế thì nghe rất hay, nhưng thật ra quan điểm phiếm thần cũng nhìn nhận như thế. Nếu nói Đức Chúa Trời là nguồn của mọi sự hiện hữu, nhưng Chúa không quan tâm vì Ngài không nghe, không thấy, không can thiệp trực tiếp vào vũ trụ này thì đó cũng là một hình thức phủ nhận tính cá vị Đức Chúa Trời. Cũng giống như chúng ta nói: Điện chính là nền tảng cho sự hiện hữu của mọi hình ảnh đang diễn ra trong chiếc TV, nhưng những nhân vật trong chiếc TV đó thì không liên quan gì đến nguồn điện và ngược lại.


Nếu Paul Tillich tuyên bố “Đức Chúa Trời không hiện hữu” trong quan điểm “Chúa là nguồn của sự hiện hữu” như đã phân tích ở trên thì, chúng ta cũng cần phải nhắc đến một nhân vật khác là Friedrich Nietzsche khi ông ta tuyên bố rằng, “Đức Chúa Trời đã chết.” Cũng bằng cách tiếp cận hiện sinh và vô thần, Nietzsche đổ lỗi cho Đức Chúa Trời về mọi hệ quả tiêu cực đang diễn ra trong thế giới hư hoại này. Nếu Ngài không chịu trách nhiệm vậy thì là “Ngài đã chết”. Đi xa hơn thế! Thomas J. J. Altizer còn cho rằng đó là cách tốt nhất để chứng minh sự nội tại của Đức Chúa Trời. Thay vì chờ đợi Đức Chúa Trời can thiệp và giải cứu con người thì con người nên tự giải cứu mình khỏi niềm tin vào một Đức Chúa Trời đã chết. Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa hiện sinh và vô thần không khác nhau là mấy. Họ luôn nhìn nhận những vấn đề của con người một cách chủ quan như một đứa trẻ luôn đổ lỗi cho người khác để bào chữa cho những sai trật của mình.


Tất nhiên, chúng ta không dựa trên các quan điểm triết học hoặc tâm lý học hiện sinh để diễn đạt sự nội tại của Đức Chúa Trời. Chúng ta dựa trên sự mặc khải của Kinh Thánh để nhận diện sự nội tại của Đức Chúa Trời và do chính Ngài bày tỏ. Vì Kinh Thánh nói rằng: Ngài tạo dựng nên thế giới này và Ngài đang tiếp tục điều khiển và bảo tồn thế giới này. Không những vậy, Ngài còn trực tiếp bước vào thế giới của chúng ta bằng cách Chúa Giê-su Christ đã giáng sinh làm con người và làm cầu nối đưa con người trở lại cùng Đức Chúa Trời. Sau khi Chúa Giê-su Christ thăng thiên thì Đức Thánh Linh cũng đã giáng lâm và đang tiếp tục tác động trên thế giới và đời sống của con người. Đây chính là những bằng chứng rõ ràng về tính nội tại của Đức Chúa Trời mà không thể phủ nhận hay bị hiểu sai lạc bằng bất cứ suy luận mỹ miều nào khác.


Một vấn đề thần học khác được đặt ra liên hệ đến tính nội tại của Đức Chúa Trời, đó là khi chúng ta nói: Đức Chúa Trời có can thiệp vào thế giới-tạo vật của Ngài, như vậy có phải chăng quan điểm cho rằng mọi tạo vật trong thế giới này đã hư hoại là hoàn toàn sai. Bởi vì, nếu thế giới này là hư hoại (tội lỗi) thì tại sao một Đức Chúa Trời hoàn hảo và thánh khiết lại tiếp xúc vào thế giới này. Như chúng ta đã từng thảo luận về Tự Nhiên Thần Luận, tuy thế giới này đã hư hoại so với thế giới nguyên thủy (trước khi con người sa ngã) nhưng thế giới này vẫn đang được vận hành trong sự toàn hảo của Đức Chúa Trời, vì thế thế giới này cũng đang bày tỏ những chân lý phổ quát về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Ngay cả con người là chủ thể của sự sa ngã đã đưa thế giới này đến chỗ hư hoại, nhưng con người vẫn đang lưu giữ những mỹ đức (hình ảnh) của Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Chúa Trời đang tác động đến những mỹ đức bên trong con người được ban cho bởi Ngài hầu hoàn thiện và thay đổi con người. Vì thế, điều này không tổn hại gì đến tính hoàn hảo của Đức Chúa Trời, nhưng ngược lại chứng minh tính hữu ngã và nội tại siêu việt của Ngài.


Bước qua Chương 16, chúng ta đã thảo luận về giáo lý Ba Ngôi. Tác giả Millard nói rằng đây là một giáo lý độc nhất vô nhị của Cơ-đốc giáo so với các tôn giáo khác như Do-thái giáo độc thần hoặc Ấn-giáo đa thần. Và đó cũng là một lý do khiến Hồi giáo và Do-thái giáo chủ trương độc thần không chấp nhận giáo lý Ba Ngôi của Cơ-đốc giáo. Ngay chính trong vòng Cơ-đốc giáo cũng đã trải qua nhiều sự va chạm về cách giải thích giáo lý này.


Chúng ta còn nhớ Sứ đồ Giăng đã từng nói rằng: Bất cứ ai cho rằng Đấng Christ không lấy xác thịt mà sinh ra thì được xem như tà giáo (I Giăng 4:2-3). Tại sao Giăng lại phải biện giáo về vấn đề này? Chắc chắn vào thời điểm đó đã có một số người cho rằng thế giới này hư hoại tội lỗi thì Con Đức Chúa Trời không thể nào đến đây bằng thân xác con người. Hay nói cách khác, họ tin rằng Chúa chỉ là một con người bình thường, nhưng Ngài có một năng lực đặc biệt nào đó. Phai chăng, cũng từ quan điểm như thế mà sau này Arian đã đưa ra thuyết cho rằng Chúa Giê-su chỉ là một tạo vật cao cấp mà thôi. Một thuyết khác giải thích quan điểm của Arian cho logic hơn khi cho rằng, Chúa Giê-su đã được Đức Chúa Trời nhận làm con nuôi ngay tại thời điểm Ngài làm Báp-têm. Trong khi một thuyết khác thì giải thích rằng Đức Chúa Trời chỉ có một những Ngài đã thể hiện qua ba nhân vật trong ba giai đoạn khác nhau mà thôi. Ngày này, những tín lý sai lạc này về giáo lý Ba Ngôi Hiệp Nhất vẫn còn tồn tại trong một số giáo phái như Mormon, Chứng nhân Giê-hô-va, Hội Thánh Đấng Christ, Hội Thánh Đức Chúa Trời (Ngũ Tuần).


Chúng ta tin rằng: Kinh Thánh đã từng ám chỉ một Đức Chúa Trời ở đại danh xưng số nhiều (Elohim). Nghĩa là Đức Chúa Trời độc nhất nhưng có nhiều thân vị. Điều này khiến cho quan điểm độc thần của Do-thái giáo và Hồi giáo khó giải thích. Chúa Giê-su tiền giáng sinh nhiều lần được Kinh Thánh xưng nhận là Đức Chúa Trời. Điều này phản bác với quan điểm cho rằng Chúa Giê-su chỉ là một thiên sứ hoặc là một người đặc biệt. Ngoài ra, nhiều lần trong Kinh Thánh cho thấy có sự hiện diện cùng lúc của Ba Ngôi, hoặc là sự tráo đổi danh xưng và công tác giữa Ba Ngôi. Điều này phản bác thuyết cho rằng một Đức Chúa Trời thể hiện qua ba nhân vật ở ba thời điểm khác nhau. Tuy danh từ Ba Ngôi không được nói đến trong Kinh Thánh như nhiều người viện dẫn, nhưng toàn bộ Kinh Thánh cho thấy rõ sự hiện diện của Ba Ngôi Đức Chúa Trời đồng đẳng và đồng bản thể-hiệp nhất trong công tác sáng tạo thế giới, cứu chuộc, và tái sanh con người.

Bài đăng gần đây

Xem tất cả
SỰ QUAN PHÒNG CỦA CHÚA

Tổng Kết Tuần 6 Quý thầy cô thân mến! Vậy là chúng ta đã thảo luận Chương 19: Sự quan phòng của Chúa, và Chương 20: Thế giới và điều ác...

 
 
 
BẢN THỂ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Quý thầy cô thân mến! Trong tuần qua có nhiều việc xảy ra khiến tôi phải suy nghĩ nhiều. Tôi đã tự hỏi mình nhiều điều…! Nhưng rồi Chúa...

 
 
 

Bình luận


bottom of page