SỰ QUAN PHÒNG CỦA CHÚA
- Admin
- 16 thg 6
- 8 phút đọc
Tổng Kết Tuần 6
Quý thầy cô thân mến!
Vậy là chúng ta đã thảo luận Chương 19: Sự quan phòng của Chúa, và Chương 20: Thế giới và điều ác trong Tuần học 6 này. Cả hai chủ đề có liên đới với nhau, và chúng rất quan trọng không chỉ về luận lý thần học mà cả về đức tin trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Trong thế giới mà chúng ta đang sống-tôi lỗi thì gia tăng và con người thì tin vào khả năng của khoa học, kỹ thuật hơn là sự quan phòng của Chúa.
Tôi còn nhớ 30 năm trước, khi tôi nhận được sự đặt tay và sai phái của Hội Thánh để lên Bình Long hầu việc Chúa với các anh em người Stiêng. Tôi chưa bao giờ đến Bình Long, không biết người mình sẽ gặp mặt mũi ra sao, chỉ biết bước đi bằng đức tin, cầu nguyện và cầu nguyện. Thế nhưng, bởi sự quan phòng của Chúa, khi tôi vừa bước xuống khỏi chiếc xe đò tại bến xe Bình Long thì một người anh em chạy đến hỏi: Có phải là thầy Hùng không? Trên đường đi về làng của người anh em đó, tôi đã hỏi: tại sao thầy lại nhận ra là tôi vậy? “Tôi thầy thầy rất khác với mọi người, và Chúa thúc giục tôi đến hỏi thầy,” người anh em đó trả lời tôi.
Tôi kể câu chuyện trên đây để muốn nói rằng, ngay chính chúng ta (Hội Thánh) ngày nay cũng bị ảnh hưởng của khoa học, kỹ thuật rất nhiều. Ví dụ, cùng một câu chuyện như trên, nếu là ở thời đại ngày nay chúng ta có thể gọi Facetime để thấy mặt nhau trước, và khi đến chỉ chần nhắn tin là gặp được nhau. Thế nhưng, ở 30 năm trước đây thì điều phải chuẩn bị chính là cầu nguyện và tin vào sự quan phòng của Chúa. Phải chăng chính vì những phương tiện kỹ thuật này đã khiến chúng ta quên dần sự hiện diện và sự quan phòng của Chúa? Và rồi chúng ta cũng không khác gì so với những người không có đức tin. Vì thế, đây là một chủ đề rất quan trọng đối với niềm tin của người Cơ-đốc, vì nếu không tin vào sự quan phòng của Chúa vậy thì ai là người đặt ra các quy luật vật lý và tâm linh trong thế giới này, và dầu con người có tin vào sự quan phòng của Chúa hay không thì họ vẫn phải chịu sự chi phối của những quy luật đó, để rồi tiếp nhận kết quả tùy thuộc vào sự nhìn nhận và đáp ứng của mỗi người với sự quan phòng của Ngài.
Tuy nhiên, chủ đề thần học về sự quan phòng của Chúa là một chủ đề gây nhiều tranh cãi và sự chống đối trong giới thần học lẫn vô thần. Ví dụ, những người vô thần thì cho rằng không có một quy luật tâm linh nào trong thế giới này, mọi thứ xảy ra đều do ngẫu nhiên và đến từ các quy luật tự nhiên. Trong khi những người thuộc phái hoài nghi thì đặt câu hỏi, nếu có sự quan phòng của Chúa Công Bình và Toàn Năng vậy thì tại sao có tội ác và bất công? Một số nhà thần học thì lại cho rằng, nếu Chúa quan phòng mọi thứ vậy thì sự tự do của con người ở đâu? Phải chăng ý chí và nỗ lực của con người chỉ là hư vô vì mọi thứ đã được lập trình trước. Bây giờ chúng ta nói về trường hợp thứ nhất là những người không tin vào những quy luật tâm linh trong thế giới này.
Có thể chúng ta dùng Tự Nhiên Thần Luận để chứng minh với một người vô thần rằng, không có một chiếc đồng hồ nào do con người tạo ra mà chạy chính xác và bền bỉ như chính Thái dương hệ của chúng ta. Vì bất cứ chiếc đồ nào cũng sẽ có sự sai số theo thời gian, nhưng mặt trời, trái đất và các vì tinh tú thì không hề sai trật trong đường quay của chúng kể từ khi được tạo dựng. Cho nên, nếu không có sự quan phòng của Chúa trên vũ trụ này thì mọi thứ không thể tiếp tục vận hành một cách trật tự như chúng ta đang chứng kiến. Câu trả lời thường thấy nhất đó là, tất cả đều là một sự ngẫu nhiên ra từ vụ Big Bang, không có sự sáng tạo cũng không có sự quan phòng nào cả. John Lennox là giáo sư toán học tại Đại học Oxford nói rằng: If there was a beginning, then there must be a Beginner. Tạm dịch: Nếu có một bắt đầu phải có một người khởi đầu. Cũng như một người (vô danh) đã nói: Nếu có vụ nổ Big Bang thì Chúa là Đấng nhấn nút cho vụ nổ đó xảy ra. Tất nhiên, ở đây chúng ta không luận lý về sự sáng tạo mà là sự quan phòng, nhưng nếu chúng ta tin vào sự sáng tạo thì cũng phải tin vào sự quan phòng là nguyên nhân của sự sáng tạo tiếp tục được duy trì trong trật tự.
Cũng có những người tin rằng, Chúa có sáng tạo nhưng sau khi mọi thứ được tạo dựng thì Chúa không can thiệp gì đến thế giới tạo vận này nữa. Cũng giống như một chiếc đồng hồ được làm nên rồi thì người kỹ sư không cần phải can thiệp vào thì nó vẫn chạy bình thường. Lập luận này mới nghe qua rất hay, nhưng họ quên rằng nếu không có một ai đó thường xuyên thay bin thì chiếc đồng hồ sẽ không thể tiếp tục chạy mà không có năng lượng, hoặc nếu không có người điều chỉnh sự sai số theo thời gian thì chiếc đồng hồ sẽ trở nên vô nghĩa. Như Paul Davies là một nhà vật lý có ý nói rằng, nếu không có ai đó giữ cho trái đất không tiến gần hay xa hơn mặt trời dù chỉ một milimet thì tai họa sẽ xảy ra. Trong khi khoa học gia Stephen Meyer thì cũng có ý nói rằng, hệ thống DNA trong mỗi con người tinh vi hơn bất cứ máy tính nào đã được tạo dựng, nếu không có một ai đó giữ DNA của con người không thay đổi dầu chỉ một phần nhỏ thì con người chỉ là một chiếc máy bị lỗi. Kinh Thánh đã trả lời từ trước khi con người chưa khám phá ra những quy luật quan trọng này: Ngôi lời là Đấng nâng đỡ (bảo trì) muốn vật (Hê-bơ-rơ 1:3).
Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề chính là những người không tin có những quy luật tâm linh. Có thể hy vọng là sau khi trình bày thì những người vô thần có thể chấp nhận là thế giới này có một Đấng khởi đầu (tạo dựng) và đang bảo trì (quan phòng), nhưng họ sẽ không chấp nhận nếu chúng ta nói với họ rằng, có một quy luật tâm linh “gieo giống chi sẽ gặt giống đó.” Hoặc chúng ta nói: nếu anh phạm tội thì sẽ bị Chúa đoán phạt. Bởi vì, họ cho rằng, nếu có một điều gì đó bất thường hay tai họa xảy ra cho một ai đó từng làm điều sai trái thì đó cũng chỉ là ngẫu nhiên, cũng giống như chúng cũng từng xảy ra với những người được cho là người tốt vậy thôi; không có một Đấng quan phòng nào chi phối quy luật tâm linh nào cả. Lập luận như thế nghe cũng rất hữu lý. Tuy nhiên, tôi nói vui là, có những người không sợ ma nhưng dẫu sao thì họ vẫn sợ bóng tối. Ý tôi muốn nói là những người này không tin vào một Đấng quan phòng trên bình diện rộng là vũ trụ cũng như trên bình diện hẹp là từ hành vi của con người sẽ nhật một kết quả xứng đáng, nhưng thật ra họ cũng sợ phải rơi vào hậu quả của những quy luật tâm linh đó. Bằng chứng là họ vẫn tin vào một xã hội cần duy trì trật tự và đạo đức. Một bằng khác chứng cụ thể nhất là lương tâm họ đang cáo trách và cảnh báo họ không được làm điều ác. Mặc dầu họ phải ở trong tình trạng mà Kinh Thánh nói: “...lương tâm mình làm chứng, ý tưởng mình cáo giác hoặc bênh vực...” (Rô-ma 2:15) Tất nhiên là trừ ra những người người mà “lương tâm đã bị chai lì” (I Ti-mô-thê 4:2). Nói cách khác, nếu đã không tin vào những quy luật tâm linh thì tại sao phải sợ hậu quả của nó, vì bằng chứng là họ không dám phạm tội theo bản năng không phải vì sợ luật pháp con người mà còn sợ một hậu quả vô hình nào đó; nếu không thì thế giới này sẽ không khác gì “sa mạc Sa-ha-ra.” Tất nhiên cũng có những xã hội-thiên đường cộng sản, nơi mà con người sống như thú hoang “ăn thịt” đồng loại để no bụng mình. Ngược lại, chúng ta tin rằng Chúa không chỉ quan phòng trên vũ trụ rộng lớn bằng việc duy trì những quy luật tự nhiên, mà Ngài còn quan phòng trên từng cá nhân con người qua những quy luật tâm linh.
Bây giờ chúng ta nói đến một vấn nạn thứ hai trong chủ đề này là những người phản biện lại sự quan phòng của Chúa, vì họ lập luận: Nếu Chúa quan phòng thì tại sao Ngài không ngăn chặn tội ác; như việc người Do-thái bị diệt chủng là một ví dụ điển hình nhất. Rất dễ để chúng ta phản biện với lập luận này rằng, Đức Chúa Trời cho phép một điều ác xảy ra nhưng đến cuối cùng thì kết quả là tốt đẹp hơn ban đầu hoặc là ngoài sự suy nghĩ của chúng ta. Ví dụ, dân Do-thái bị diệt chủng, nhưng rõ ràng là cuối cùng thì nhờ đó mà họ được hồi hương và lập quốc như ý định của Chúa đã dành cho họ từ trước. Tuy nhiên, vấn đề vẫn chưa được giải quyết trọn vẹn. Bởi vì, chúng ta có thể giải quyết vấn đề quan phòng trên bình diện cộng đồng, còn vấn đề từ cá nhân thì chưa thỏa đáng. Vì những người này sẽ hỏi rằng, vậy Chúa không quan phòng trên số phận sáu triệu người vô tội bị chết cách thảm khốc. Để trả lời vấn đề này thì chúng ta cũng phải liên hệ đến vấn đề thứ ba, đó chính là việc Chúa quan phòng thì Ngài có vi phạm quyền tự do của con người hay không.
Chúng ta khoan nói đến biến cố dân Do-thái bị diệt chủng trong thế chiến thứ hai, mà hãy quay lại biến cố dân Do-thái bị thảm sát năm 70. Trước khi biến cố này xảy ra, Chúa Giê-su đã khóc vì thấy trước cảnh tượng đó, và Ngài nói rằng ước gì họ biết ăn năn để tránh khỏi thảm họa đó. (Lu-ca 19:41-42) Như vậy, điều này cho thấy Chúa không đứng ngoài hay vô cảm về sự hư hoại của những con người là nạn nhân trong biến cố đó. Đồng thời Ngài cũng phải tôn trọng những quy luật tâm linh (đã nói ở trên) do chính Ngài đặt ra. Nghĩa là dân Do-thái có cơ hội để ăn năn, từ bỏ sự kiêu ngạo cứng lòng để tránh khỏi sự diệt vong, những họ đã không làm điều đó. Tất nhiên, một phương diện khác thì Chúa cũng tôn trọng quyền tự do chọn lựa của con người, nên Ngài không buộc họ phải thay đổi thái độ. Tôi tin rằng, cũng một cách giống như thế đã xảy ra với dân Do-thái trong thế chiến thứ hai.
Bình luận