top of page

"NGÔN NGỮ THẦN HỌC"

  • Ảnh của tác giả: Admin
    Admin
  • 26 thg 5
  • 8 phút đọc

Quý thầy cô thân mến!


Trải qua sáu tuần học của môn Thần học Hệ thống I này, quý thầy/cô cũng đã có cơ hội tiếp cận với những phong trào triết học được biết dưới danh nghĩa thần học; những phong trào này đã tấn công, phê phán, và bóp méo sự mặc khải trong đủ mọi phương diện. Cũng vậy, trong Chương 6 này, chúng ta lại tiếp cận với một hình thức phê phán khác, đó chính là vấn đề “Ngôn ngữ Thần học.” Tuy nói là phê phán ngôn ngữ thần học, nhưng vì nội dung của thần học là mặc khải, cho nên khi họ phê phán ngôn ngữ thần học cũng chính là phê phán tính trong sáng của mặc khải.


Nhiều thầy/cô đã dùng cụm từ “Luận lý Học Biện chứng” và cho rằng đó là sản phẩm của G. E. Moore và Bertrand Russell, nhưng thật ra Luận lý Học Biện chứng ra từ Triết học Duy tâm của Hegel, rồi sau đó Karl Marx đã sử dụng và biến tấu nó thành Chủ nghĩa Duy vật Biện chứng. Trong khi, G. E. Moore và Bertrand Russell chỉ chuyên về triết học phân tích ngôn ngữ, nhưng mục tiêu của hai người này là đã phá các trường phái duy tâm, mà đối tượng chính của họ chính là ngành thần học.


Tóm lại, lý thuyết chủ đạo của phong trào “Biện chứng” là phủ định những gì thuộc duy tâm, vì họ cho rằng trong lĩnh vực duy tâm không thể chứng minh bằng tính logic. Hay nói cách khác, những gì phi-logic thì không đáng tin và cần phải loại bỏ. Vào đầu thế kỷ 20, khi mà nhân loại đang đứng trước một cánh cửa mở rộng của khoa học và tri thức mới, phong tròng này đã giáng một đòn mạnh vào niềm tin của Cơ-đốc giáo thông qua ngành thần học. Điển hình là phong trào Phân tích Ngôn ngữ Thần Học của G. E. Moore và Bertrand Russell mà chúng ta đang bàn luận. Họ đã đưa ra rất nhiều định đề để chứng minh sự phi-logic trong ngôn ngữ thần học, và từ đó kết luận rằng có rất nhiều điều “vô nghĩa” trong niềm tin Cơ-đốc được chứng minh qua chính ngôn ngữ của thần học. Tuy nhiên, tôi có thể nói rằng, các phong trào này như một chiếc máy xay, mà nó chỉ có thể nghiền nát đá sỏi, nhưng nó lại làm cho viên kim cương (sự mặc khải) được mài giũa sáng láng thêm hơn mà thôi.


Có lẽ, nhiều thầy/cô từng được đọc những câu hỏi trong giáo lý căn bản, nhưng không biết nguồn gốc của nó đến từ đâu; thật ra những câu hỏi này chính là ra từ phong trào luận lý biện chứng và phân tích ngôn ngữ thần học; họ đưa ra những câu hỏi chất vấn để tìm ra những sự “vô nghĩa” trong thần học để chống lại thần học. Tôi muốn nói đến những câu hỏi điển hình như:


Đức Chúa Trời là tạo hóa của vạn vật, vậy ai là tạo hóa của Ngài? Từ đó, họ lý luận rằng, nếu vế thứ hai (ai là tạo hóa của Đức Chúa Trời) mà không biện chứng (chứng minh) được thì xem như vế thứ nhất (Đức Chúa Trời là tạo hóa của vạn vật) là hoàn toàn sai (vô nghĩa). Mới nghe qua định đề này, nhiều người sẽ rất muốn trở nên tín đồ của tôn giáo Vô thần. Nhưng họ quên mất rằng, quy luật của ngôn ngữ có quy định tính chất của một từ ngữ nào đó. SGK có đưa ra ví dụ: 2+2=4, hoặc 2x2=4, như vậy không thể nào hỏi: có kết quả nào khác ngoài 4 hay không? Cũng vậy, Không ai đứng trước một “Toà án Tối cao” mà hỏi rằng, có tòa án nào cao hơn Tòa án Tối cao này hay không? Nghĩa là, trong mọi ngôn ngữ của con người, khi nói đến Đấng Tạo Hóa người ta gọi đó là Chúa, Thượng Đế, hay tôn kinh hơn là Đức Chúa Trời. Chỉ có những người cố tình phủ nhận “quy luật giá trị của ngôn ngữ” thì mới đặt ra câu hỏi này.


Có câu chuyện kể lại, vào những năm đầu thế kỷ 20, có một cậu sinh viên trường đại học Columbus đứng ở ngã tư đèn đường và bắt loa tuyên bố rằng: Nếu như Đức Chúa Trời có hiện hữu thì hãy giết tôi chết trong vòng 5 giây, nhưng nếu sau khi tôi đếm 5 giây xong mà tôi không bị chết thì niềm tin nơi một Đức Chúa Trời hiện hữu là “vô nghĩa”. Sau khi kết thúc 5 giây, cậu ta tự đắc tuyên bố, niềm tin vào Đức Chúa Trời là hoàn toàn vô Nghĩa, bởi vì ông ta thực sự không bao giờ hiện hữu. Trong lúc đó, đứng bên cạnh chàng sinh viên vô thần là một cậu bé tám tuổi. Cậu ta lắng nghe nãy giờ, và cậu ta lên tiếng hỏi: Anh có thể cho tôi mượn cái loa của anh có được không? Sau khi cầm loa, cậu bé nói lớn tiếng rằng: Tôi cho anh sinh viên vô thần này 5 giây, nếu anh ta mà không giết tôi thì anh ta thật sự không có hiện hữu. Mọi người đứng xem nãy giờ rất khó chịu thì bây giờ họ lại có một dịp để phá lên cười trong thỏa thích, còn chàng sinh viên vô thần thì cuối mặt bỏ đi. Cậu bé đã dùng “Tư duy Đảo ngược” để phản biện tính áp đặt ngôn ngữ: Anh ta không thể giết một cậu bé để chứng minh mình hiện hữu, thì Đức Chúa Trời lại càng không cần thiết phải làm như thế. Từ câu chuyện này cho thấy rằng, phái luận lý biện chứng thường hay dùng phương pháp “cưỡng ngôn đoạt lý,” và không phải vấn đề nào cũng có thể dùng “biện chứng” để làm thước đo của ngôn ngữ, nhất là trong lĩnh vực tâm linh.


Có một truyền thuyết khác kể rằng: Một vị thầy thuộc trường phái Duy vật Biện chứng đã dùng quy nạp luận để luận giảng rằng: Thế giới này đầy những tội ác, hiện giờ ở đâu đó đang có những bé gái bị hãm hiếp, các em bé sơ sinh chết vì đói, nhiều người vô tội chết vì chiến tranh…; ông ta kết luận, như vậy Chúa là Đấng yêu thương thật sự không hề hiện diện, nếu không thì tại sao Ngài không can thiệp và ngăn chặn những tội ác đó? Một cậu học trò trong lớp học đó đã phản biện rằng: Em cũng không tin là bóng tối hiện diện trên trái đất này. Vị thầy rất bực tức và yêu cầu cả lớp đóng cửa lại rồi tắt tất cả các đèn, làm căn phòng trở nên tối om. Người thầy, tự tin nói với cậu học trò rằng: Vậy cậu gọi đây là cái gì? Cậu học trò từ tốn giải thích: Bóng tối thực ra không tồn tại, mà chỉ là sự thiếu vắng ánh sáng. Cũng tương tự như vậy, lạnh không phải là một thực thể, mà là sự thiếu nhiệt lượng. Cuối cùng, cậu bé kết luận rằng, tội ác trong thế giới này hiện hữu là vì thiếu vắng lòng tin vào Đức Chúa Trời. Người ta nói rằng cậu học trò đó chính là Albert Einstein. Từ câu chuyện này cho chúng ta thấy “biện chứng” và “ngụy biện” rất gần với nhau.


Cũng có những kẻ ngạo mạng hơn đã đưa ra một định đề: Nếu Chúa là toàn năng thì Ngài có thể tạo ra một hòn đá nặng đến nỗi chính Ngài cũng không thể nhấc lên được hay không? Nếu không trả lời được thì niềm tin vào một Đức Chúa Trời toàn năng là vô nghĩa. Mới nghe qua câu hỏi có vẻ như những người tin vào Chúa bị đưa vào trong một thế bí, bởi vì trả lời là "có" hoặc "không" thì đều nhìn nhận là Chúa không còn toàn năng. Để phản biện lại lập luận này, chúng ta hỏi lại rằng: Ví dụ, trong tay anh đang có một khẩu súng với sức mạnh vô biên, nói có thể giết rất nhiều người trong cùng một lúc, vậy anh có thể nào dùng nó để giết chết cha mẹ và anh em của anh khay không? Nếu không thì tôi không tin rằng anh đang có một khẩu súng thật. Tất nhiên, anh ta sẽ hiểu rằng trong tay mình đang có sức mạnh không gì chống lại được, nhưng mình không dùng nó để làm điều gì ngược lại với bản chất của mình. Cũng như vậy, Đức Chúa Trời toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa không làm điều gì ngược lại với hay chống lại với chính Ngài. Vì thế, câu hỏi này tự bản thân của nó là phi-logic.


Nói đến đây thì quý thầy/cô cũng đã nhận ra sự thâm độc và nguy hiểm của phong trào Luận lý Biện chứng nói chung và phong trào Phân tích Ngôn ngữ hay còn được gọi là Thực chứng Luận lý nói riêng. Bởi vì, phong trào triết học này lợi dụng tính logic để đã phá sự “thiếu” biện chứng trong ngôn ngữ thần học và mạc khải để phủ định những giá trị cốt lõi của Thần học Hệ thống nói riêng và niềm tin Cơ-đốc nói chung. Tuy nhiên, qua sự phản gián luận (phản biện luận) như trên thì chúng ta lại thấy chính tự thân của phong trào này chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn, cưỡng lý và ngụy biện, từ đó cho thấy “niềm tin” của họ là “vô nghĩa” chứ không phải niềm tin Cơ-đốc của chúng ta.


Vậy còn vấn đề mà câu hỏi thảo luận đưa ra thì phải phản biện như thế nào? Thật ra không có điều gì được gọi là “vô nghĩa” ở đây cả, bởi vì câu trả lời phản biện cho câu hỏi này là thuộc về hai vấn đề trải nghiệm cá nhân và niềm tin cá nhân. Như thế nào là sự trải nghiệm cá nhân? Ví dụ: Một cô gái kia nó với người bạn của mình rằng “trái tim tôi đau quá” bạn ơi (ý cô ta muốn nói rằng mình đang bị phụ tình). Người bạn kia thì theo luận lý biện chứng nên nói rằng: Vậy bạn phải lập tức đi gặp bác sĩ tim mạch. Nghĩa là, anh không thể nào dùng “biện chứng” để kiểm chứng những trải nghiệm cá nhân. Còn về đức tin cá nhân thì sao? Ví dụ: một người nhìn ly cafe bị đổ anh ta than phiền rằng, “thật là đáng tiếc, bị đổ mất một nửa ly cafe.” Trong khi một người khác thì lại nói, “thật may quá! Chỉ bị đổ có phân nửa ly café.” Cho nên, một người bị đụng xe không thương tật, cảm ơn Chúa, bị đụng xe lên thiên đàng, cảm ơn Chúa cũng không có gì là “vô nghĩa”, bởi vì đó là cách diễn đạt đức tin cá nhân của những người đó.


Chúng ta cũng cần phải nhớ thêm rằng, ngôn ngữ thần học mang tính mặc khải nên không thể dùng ngôn từ xác định. Ví dụ: Giăng đã dùng ngôn ngữ trần gian để mô tả cảnh tượng của thiên đàng. Cũng giống như khi mới qua Mỹ, tôi đi lang thang ngoài đường phố và nghĩ thầm rằng các hàng quán ở đây đều đóng cửa, nhưng tôi thật ngạc nhiên khi cánh cửa tự động mở ra lúc tôi tiến đến gần nó.


Trong khi, ngược lại với ý ở trên thì ngôn ngữ thần học cũng mang tính xác định. Ví dụ, Chúa nói: Ta là Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu Khải 1:8 thì điều đó không có điều gì có thể phản biện được (như đã phân tích ở trên).


Cộng thêm, ngôn ngữ thần học còn có loại ngôn ngữ tương đồng. Ví dụ: Khi Kinh thánh nói Chúa là Cha thì sự tương đồng giữa Chúa về thiên chức của người cha đời này như, yêu thương, chăm sóc, bảo vệ, hướng dẫn, tha thứ… cho con cái mình.


Ngoài ra, ngôn ngữ thần học còn dùng loại ngôn ngữ mặc định. Ví dụ: Chúng ta nói mặt trời lặn hay mặt trời mọc, nếu tính theo logic thì sai, vì thực tế là trái đất xoay quanh mặt trời chứ mặt trời không “lặn” cũng không “mọc” gì cả.

Bài đăng gần đây

Xem tất cả
SỰ QUAN PHÒNG CỦA CHÚA

Tổng Kết Tuần 6 Quý thầy cô thân mến! Vậy là chúng ta đã thảo luận Chương 19: Sự quan phòng của Chúa, và Chương 20: Thế giới và điều ác...

 
 
 
TÍNH NỘI TẠI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Quý thầy cô thân mến! Nếu quý thầy cô còn nhớ thì trong tuần trước tôi có lấy một ví dụ giữa tôi và con kiến: Trong khi tôi quan sát nó...

 
 
 

Bình luận


bottom of page