LINH CẢM - VÔ NGỘ - THẨM QUYỀN CỦA KINH THÁNH
- Admin
- 26 thg 5
- 14 phút đọc
Quý thầy cô thân mến!
Tuần học thứ hai này, chúng ta đã tiếp cận với ba vấn đề quan trọng của thần học hệ thống là sự hà hơi hay còn gọi là sự linh cảm, sự vô ngộ hay còn gọi là tính không sai lạc, và tính thẩm quyền của Kinh Thánh. Cả ba chủ đề quan trọng này như ba cái chân kiềng phải liên kết mà không thể tách rời nhau. Bởi vì, Kinh Thánh được linh cảm bởi Thánh Linh, nên Kinh Thánh là không sai lạc, và vì Kinh Thánh không sai lạc, nên Kinh Thánh có thẩm quyền tối hậu trên lĩnh vực niềm tin và sự thực hành đức tin của chúng ta.
Giả định có ai đó tách rời một trong ba chủ đề này ra thì những chủ đề còn lại là vô giá trị và trở nên mâu thuẫn. Nói rõ hơn, nếu có ai đó cho rằng Kinh Thánh không được linh cảm, vậy thì Kinh Thánh sẽ không thể vô ngộ, và Kinh Thánh cũng sẽ không có thẩm quyền tối hậu. Bởi lẽ, nếu Kinh Thánh không được linh cảm, vậy Kinh Thánh chỉ là sản phẩm của con người, và một sản phẩm của con người mà cho là vô ngộ thì rất mâu thuẫn.
Tuy nhiên, vấn đề mà chúng ta phải đối diện là có rất nhiều nhà thần học và trường phái thần học không hoàn toàn phủ nhận sự linh cảm, vô ngộ, và thẩm quyền của Kinh Thánh, nhưng họ đã đặt lại vấn đề là Kinh Thánh được soi dẫn toàn vẹn hay một phần? Cũng vậy, Kinh Thánh không sai lạc toàn bộ hay một phần? Và Kinh Thánh có thẩm quyền ở mức độ nào? Những trường phái thần học và các nhà thần học này đã đưa ra những phần mà họ cho là “sai lạc” trong Kinh Thánh để phủ nhận sự linh cảm hoàn toàn, và nghi ngờ tính vô ngộ của tuyệt đối của Kinh Thánh, điều này cũng đồng nghĩa với việc công nhận rằng Kinh Thánh không có thẩm quyền tuyệt đối. Từ đó, họ đưa ra giả thuyết cần phải xem xét lại những tuyên bố của đức tin trong thần học hệ thống và cần đánh giá lại các giá trị của niềm tin Cơ-đốc vì Kinh Thánh có sự tham dự khiếm khuyết từ con người.
Bây giờ, chúng ta hãy cùng xem xét lại từng vấn đề cách khách quan và trung thực hơn để xem giả thuyết trên là hợp lý hay phi lý.
Theo tác giả (Millard) thì sự linh cảm (soi dẫn) có nghĩa là qua con người lời của Đức Chúa Trời được truyền đạt. Như vậy, ở đây chúng ta thấy yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành Kinh Thánh mặc dầu con người không phải là vai trò chủ thể. Vì thế, vấn đề được đặt ra là Đức Chúa Trời đã tác động trên con người như thế nào và bằng cách nào để được gọi là linh cảm toàn phần.
Quan điểm đầu tiên mà chúng ta nói đến là một quan điểm bảo thủ nhất thuộc thời kỳ Cải chánh Tin lành. Người đại diện cho quan điểm này là Louis Gaussen. Ông cho rằng Đức Chúa Trời đọc từng lời cho các trước giả Kinh Thánh chép lại. Chúng ta tạm gọi đây là quan điểm “viết chính tả.” Quan điểm này hoàn toàn loại bỏ yếu tố khách quan của con người. Đức Chúa Trời là chủ thể tuyệt đối trên toàn bộ Kinh Thánh. Quan điểm này tất nhiên là tôn cao Kinh Thánh, thể hiện sự kính trọng và tin tưởng tuyệt đối vào sự linh cảm của Kinh Thánh. Tuy nhiên, điểm yếu của quan điểm này là không giải thích được những yếu tố trải rộng trong Kinh Thánh như: bối cảnh, trải nghiệm, văn phong, và cá tính riêng biệt của các trước giả Kinh Thánh. Nói tóm lại, quan điểm này xem các trước giả như những người máy không hơn không kém. Theo sách giáo khoa thì Tác giả phủ nhận quan điểm này.
Quan điểm thứ hai thì tuy có phần thoán hơn nhưng cũng thuộc trường phái bảo thủ. Người đại diện của quan điểm này là Benjamin B. Warfield của chủng viện Princeton. Ông cho rằng Chúa Thánh Linh soi dẫn trên từng lời của Kinh Thánh nhưng văn phong thì của các trước giả. Ngược lại với quan điểm đầu tiên phủ nhận vai trò khách quan của các trước giả, quan điểm này chấp nhận nhân cách, cá tính, kinh nghiệm, bối cảnh, văn phong của các trước giả, nhưng đồng thời vẫn giữ được luận điểm quan trọng là toàn phần Kinh Thánh đều được soi dẫn kể cả từ ngữ và nội dung của Kinh Thánh. Tuy nhiên, lời tuyên bố này chỉ áp dụng đối với bản chính (nguyên bản) của Kinh Thánh mà thôi. Nói cách khác, quan điểm này chấp nhận có sự sai trật trong các bản sao của Kinh Thánh. Hầu hết các nhà thần học Tin lành thuần chánh đều chấp nhận và ủng hộ quan điểm linh cảm toàn phần này kể cả tác giả Millard.
Quan điểm thứ ba thì có phần kém bảo thủ hơn so với hai trường phái trước. Đại diện cho quan điểm này là Friedrich Schleiermacher thuộc phong trào thần học tự do. Ông cho rằng Đức Chúa Trời chỉ bày tỏ những ý tưởng tổng quát, còn cách diễn đạt lại thì là do con người là các trước giả mà ra, và vì thế mà Kinh Thánh có nhiều sự sai trật cả về từ ngữ và nội dung. Cũng như quan điểm linh cảm toàn phần vừa nói ở trên, quan điểm này đề cao yếu tố khách quan của các trước giả. Từ đó, quan điểm này giải thích và biện minh cho những sự sai trật trong Kinh Thánh chỉ là sự diễn tả cách khác nhau của các trước giả mặc dầu cùng dựa trên một sự kiện. Ví dụ: Cùng một sự kiện nhưng Ma-thi-ơ thì ghi nhận con số người mù là hai, trong khi Mác thì ghi nhận một nhân vật quan trọng đã tiếp cần với Chúa Giê-su là Ba-ti-mê. Tuy nhiên, quan điểm này phủ nhận yếu tố linh cảm trên từng lời (từ ngữ) của Kinh Thánh. Như thế dẫn đến chỗ suy diễn là các trước giả chưa chắc đã truyền đạt đúng với ý định ban đầu của Chúa, vì qua ngôn ngữ của riêng họ đã làm loãng đi ý nghĩa nguyên thủy, và rồi đến khi chúng ta giải kinh thì lại diễn giải càng xa với ý muốn ban đầu của Chúa. Cộng thêm sự sai sót từ các bản dịch sau này lại càng đi đến vấn đề “tam sao thất bổn.”
Quan điểm thứ tư mà chúng ta nói đến là một quan điểm phản bảo thủ. Quan điểm này ra từ phong trào thần học hiện đại. Người đại diện cho quan điểm này là Rudolf Bultmann cho rằng những trước giả Kinh Thánh chẳng qua là những người có sự cảm thụ cao về tôn giáo, từ đó họ viết ra những trải nghiệm sâu sắc từ đức tin và trải nghiệm của họ hơn là một sự linh cảm nào đặc biệt từ Đức Chúa Trời. Quan điểm này không thể chấp nhận đối với một người thuộc Tin lành thuần túy. Bởi vì, nó loại bỏ sự linh cảm của Đức Chúa Trời, chỉ xem Kinh Thánh là một tác phẩm tôn giáo thuần túy. Điều này đồng nghĩa với việc phủ nhận sự vô ngộ và thẩm quyền của Kinh Thánh. Hay nói cách khác là phủ nhận toàn bộ niềm tin Cơ-đốc.
Sau cùng là quan điểm thuộc trường phái thần học tân chính thống, người đại diện là Karl Barth. Ông chia sự linh cảm thành hai phạm trù khác nhau là Kinh Thánh vào Lời Chúa. Quan điểm này cho rằng Kinh Thánh thuần túy chỉ là văn tự (lời logos), nhưng khi một phần nào đó trong Kinh Thánh được Đức Thánh Linh soi sáng thì lúc bấy giờ những sự khải thị của Chúa cho người đó được xem là lời Chúa (lời rema). Tuy quan điểm này không trực tiếp giải thích về sự linh cảm của Kinh Thánh, nhưng nó cũng đã trở thành một quan điểm điểm về chủ đề này. Mới nghe qua quan điểm này chúng ta có cảm tưởng vai trò của Đức Thánh Linh, mối tương giao của Cơ-đốc nhân với Kinh Thánh và Đức Thánh Linh được đề cao. Tuy nhiên, khi suy xét kỹ càng chúng ta sẽ nhận ra sự mâu thuẫn, bởi vì nếu Kinh Thánh bằng văn tự không được linh cảm thì lấy cơ sở nào để tin rằng Đức Thánh Linh dùng những lời (văn tự) không đến từ Ngài để linh cảm cho người đọc. Đồng thời, những người được cho là nhận được sự linh cảm có sự mâu thuẫn với nhau trên cùng một (phần) bản văn đó thì giải thích làm sao? Và những người được cho là nhận sự linh cảm sẽ có thẩm quyền cao hơn cả các trước giả của Kinh Thánh hay sao? Phải chăng đây chính là nguồn gốc của những diễn giả ngày nay chúng ta thường thấy họ mạnh mẽ công bố “Chúa phán với tôi” hay “tôi có lời rema!”
Vậy thì quan điểm nào thích hợp nhất đối với vấn đề sự linh cảm của Kinh Thánh? Quan điểm viết chính tả, quan điểm linh cảm toàn phần, quan điểm khải thị phổ quát, quan điểm khả năng đặc biệt, hay quan điểm phân biệt Kinh Thánh và Lời Chúa?
Theo tôi, quan điểm khả năng đặc biệt là không thể chấp nhận vì nó đồng hóa Kinh Thánh với các loại sách tôn giáo của con người. Ngoài ra, còn có quan điểm phân biệt Kinh Thánh và Lời Chúa cũng đáng quan ngại. Bởi vì quan điểm này nhấn mạnh đến yếu tố kinh nghiệm chủ quan-đôi khi cảm xúc của con người được gán ghép là linh cảm từ Chúa Thánh Linh. Trừ hai quan điểm ở trên ra thì ba quan điểm còn lại đều có ưu điểm và khuyết điểm như đã trình bày. Sở dĩ có những quan điểm khác biệt như thế là vì mỗi trường phái chỉ chú trọng vào một khía cạnh mà không chịu nhìn vấn đề một cách toàn diện. Ví dụ, đối với quan điểm chép chính tả thì rất đúng khi Môi-se chép lại mười điều răn, hoặc khi nhận công thức làm đền tạm. Còn quan điểm linh cảm toàn phần thì cũng hoàn toàn đúng khi Chúa Giê-su nói rằng “một chấm, một nét trong luật pháp của không qua đi” (Ma-thi-ơ 5:18). Điều này cho thấy Chúa đã linh cảm trên từ lời, từng chữ trong Kinh Thánh như thuyết này đã tuyên xưng. Phao-lô cũng đã khẳng định là “cả Kinh Thánh đều được Chúa linh cảm” (II Ti-mô-thê 3:16-17) chứ không phải là một phần. Còn đối với quan điểm khải thị tổng quát thì cũng hoàn toàn đúng khi Giăng nhìn thấy những hình ảnh của thiên-giới rồi ông mô tả lại bằng ngôn ngữ của chính mình.
Tóm lại, không có một quan điểm nào là trọn vẹn để rồi căn cứ vào đó mà công bố rằng Kinh Thánh không linh cảm hay linh cảm một phần. Nói cách khác, bất cứ quan điểm nào không công nhận Kinh Thánh được linh cảm trọn vẹn đều sai lầm. Bởi vì, bằng nhiều cách thức theo từng trường hợp mà Đức Chúa Trời soi dẫn trên những người mà Ngài sử dụng làm công tác truyền đạt lời của Ngài cho nhân loại. Thậm chí, có những phương cách mà chỉ có những trước giả và Chúa mới hiểu được. Cho nên, thành phần thứ ba (chúng ta) không thể dựa vào ý kiến chủ quan của mình để cho rằng những điều chúng ta chưa hiểu đó là sai lạc, hoặc là mâu thuẫn với sự linh cảm.
Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt đã khiến các nhà thần học cố công tìm cách để biện minh hoặc lý giải về sự linh cảm chính là những chỗ được họ cho là “sai trật” trong Kinh Thánh. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này thì chúng ta bước qua chủ đề tiếp theo là sự vô ngộ của Kinh Thánh.
Khi nói về sự vô ngộ của Kinh Thánh thì tác giả Millard nói rằng, trong nguyên bản của Kinh Thánh là hoàn toàn chính xác và không sai lạc trong mọi lĩnh vực. Khi nói như vậy thì cũng đồng nghĩa là thừa nhận rằng các bản Kinh Thánh hiện nay chúng ta đang cầm là có sự sai lạc như: về từ ngữ, dữ kiện lịch sử, số liệu hoặc là địa lý và khoa học. Và đây cũng chính là vấn đề cốt lõi mà những người nghi ngờ và phê bình về sự vô ngộ của Kinh Thánh thường đặt thành vấn đề phản biện tính vô ngộ của Kinh Thánh. Sau đây là một vài ví dụ điển hình như tư liệu lịch sử, khoa học, số liệu.
Về tư liệu lịch sử thì Lu-ca nói Qui-ri-ni-u làm tổng đốc xứ Si-ry khi Chúa Giê-su sinh ra, nhưng tài liệu lịch sử ngoài Kinh Thánh lại nói Qui-ri-ni-u làm tổng đốc sau thời điểm Chúa Giê-su sinh ra sáu năm.
Về khoa học: Sáng-thế Ký nói ngày thứ nhất ánh sáng được tạo nên, nhưng ngày thứ tư thì mặt trời mới được tạo dựng, nhưng vậy là mâu thuẫn vì phải có mặt trời thì mới có ánh sáng.
Về số liệu: Ma-thi-ơ thì nói có hai người mù, trong khi Mác thì nói có một trong cùng một phép lạ tại Giê-ri-cô. Và, cái chết của Giu-đa Ma-thi-ơ thì nói treo cổ, trong khi Lu-ca (Công vụ) thì nói ông ngã nhào xuống ruộng vỡ bụng mà chết.
Mới nghe qua những sự “lai lạc” của Kinh Thánh như trên thì nhiều người sẽ chấp nhận quan điểm cho rằng Kinh Thánh không hoàn toàn vô ngộ. Nhưng chúng ta đừng quên rằng chỉ cần áp dụng môn thần học giai kinh thì có thể trả lời cho những nghi điểm trên.
Nhiều tài liệu cho rằng Qui-ri-ni-u có hai nhiệm kỳ tổng đốc tại xứ Si-ry. Cũng giống như Tổng thống Trump có hai nhiệm kỳ 47 & 49, nhiều người nhầm lẫn một sự kiện nào đó giữa hai nhiệm kỳ của ống ấy cũng là chuyện dễ hiểu. Về Ánh sáng của ngày tạo dựng thứ nhất không nhất thiết phải đến từ mặt trời, mà chính là ánh sáng của Chúa trên cả vũ trụ chứ không phải trên trái đất mà thôi. Cũng giống như Chúa Giê-su nói "ta là sự sáng" thì điều này đâu có ai hiểu là Ngài phải nhờ vào ánh sáng của mặt trời. Còn vền việc Ma-thi-ơ thì quan tâm đến “số người” nên ông ghi nhận đầy đủ là hai người, trong khi Mác thì quan tâm đến “người quan trọng” nên ông chỉ đề cập đến một người. Và vấn đề Ma-thi-ơ ghi nhận giai đoạn Giu-đa treo cổ tự tử, còn Lu-ca thì ghi nhận thời gian sau đó nội tạng trong bụng sình trương lên và nỗ ra khi xác ông ta rơi từ trên xuống, hoàn toàn là hợp lý.
Ngoài ra, những vấn đề mà trước đây người ta cho là mâu thuẫn thì ngày càng được sáng tỏ khi khoa học phát triển.
Trước thế kỷ 19 nhiều học giả cho rằng dân Hê-tít là hư cấu, vì không có một bằng chứng lịch sử nào nói về dân tộc này, ngày nay khoa khảo cổ học đã tìm thấy hàng ngàn mẫu vật về dân tộc này tại Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ vào thiết bị lặng tân tiến người ta tìm thấy xương ngựa hóa thạch và bánh xe ngựa hóa thạch dưới lòng Biển đỏ chứng minh việc quân đội Pha-ra-ôn bị nước Biển đỏ chôn vùi là sự thật. Đây chỉ là một vài điển hình để thấy rằng những gì mà con người cho là “sai trật” trong Kinh Thánh thì thật ra vấn đề là từ con người chưa hiểu hết, và theo thời gian Chúa bày tỏ ra và biến những gì được cho là “sai trật” thành những điều kỳ diệu phi thường.
Tóm lại, trường phái Tân Chính thống, đặc biệt là Karl Barth chia ra Kinh Thánh và Lời Chúa là không thể chấp nhận, vì cho rằng bản văn Kinh Thánh không phải là lời Chúa nên không vô ngộ. Trong khi cũng thuộc trường phái này thì Paul Jewett lại đưa ra quan điểm vô ngộ từng phần, vì những gì mà Kinh Thánh nói về đức tin, sự cứu rỗi là vô ngộ, còn các vấn đề như lịch sử, khoa học, địa lý… là có sai lầm.
Nói đến đây, có lẽ nhiều người sẽ hỏi rằng, quan điểm của trường phái nào là có thể chấp nhận được về tính vô ngộ của Kinh Thánh? Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm Kinh Thánh được linh cảm toàn phần thì chúng ta cũng phải tin rằng Kinh Thánh là vô ngộ toàn phần kể cả nội dung đức tin cứu rỗi và mọi lĩnh vực khác như từ ngữ, lịch sử, khoa học hay địa lý. Cần lưu ý là Tác giả Millard cũng chấp nhận quan điểm này.
Riêng thần học Công giáo thì chúng ta không bàn đến ở đây, vì họ cho rằng sự vô ngộ của Kinh Thánh phải đi liền với sự vô ngộ của giáo hoàng và giáo hội. Vấn đề này chúng ta sẽ nói trong phần tiếp theo về vấn đề thẩm quyền của Kinh Thánh.
Trước tiên, chúng ta phải bàn đến vấn đề thẩm quyền của Kinh Thánh đối với thần học Công giáo. Như đã nói, Công giáo tin rằng Giáo hoàng là người được Chúa lựa chọn để đại diện cho Ngài, vì thế ông ta có khả năng vô ngộ, và khả năng này được chứng thực trãi dài trong lịch sử của giáo hội. Đây chính là lý do tại sao có phong trào cải chánh Tin lành để đưa giáo hội trở lại dưới thẩm quyền tuyệt đối của Kinh Thánh.
Thế nhưng, ngay sau khi Tinh lành được hình thành thì những quan điểm khác biệt cũng xuất hiện theo dòng lịch sử của nó. Trường phái Tân Chính thống cho rằng bản văn Kinh Thánh chỉ là lời văn tự (logos) không có một thẩm quyền nào, cho đến khi lời văn tự đó trở thành lời linh cảm (rema) thì lúc bấy giờ đó mới chính là Lời Chúa có thẩm quyền.
Đi xa hơn trường phái Tân Chánh thống là phái Thần học Tự do, phái này cho rằng Kinh Thánh không hơn không kém các kinh sách của các tôn giáo khác, vì thế Kinh Thánh không thể được cho là có thẩm quyền tuyệt đối.
Tất nhiên, cá nhân tôi không chấp nhận quan điểm của Công giáo, Tân Chánh thống, và Thần học Tự do. Có lẽ, quý thầy cô sẽ hỏi vậy thì quan điểm nào là có thể chấp nhận được? Như tôi đã nói từ ban đầu. Linh cảm, vô ngộ, thẩm quyền là ba chân kiềng không thể tách rời. Nếu chúng ta tin Kinh Thánh là linh cảm toàn phần, vô ngộ toàn phần, thì chúng ta cũng phải tin rằng Kinh Thánh có thẩm quyền tuyệt đối.
Tôi muốn lấy một ví dụ như sau: Chính phủ Hoa Kỳ được chia thành ba nhánh quyền lực là lập pháp (quốc hội), tư pháp (tòa án), và hành pháp (tổng thống). Như vậy nếu hỏi nhánh là quyền lực cao nhất? Câu trả lời là không có một nhánh nào trong ba nhánh vừa nói có quyền lực cao nhất. Câu trả lời là hiến pháp hoa kỳ mới có thẩm quyền cao nhất, bởi vì ba nhánh này dầu đưa ra bất cứ một đạo luật nào cũng phải dựa trên hiến pháp và phải đúng tinh thần của hiến pháp quy định.
Cũng giống như vậy, giáo quyền (người lãnh đạo), giáo lý (thần học), giáo luật (tổ chức) sẽ không có một thẩm quyền nào nếu không dựa trên sự giải thích chuẩn mực từ Kinh Thánh. Như vậy, giả thuyết từ đầu cho rằng Kinh Thánh có sai lầm, vì thế Kinh Thánh không được linh cảm toàn vẹn, nên Kinh Thánh cũng không vô ngộ hoàn toàn, và tất nhiên Kinh Thánh cũng không có thẩm quyền tuyệt đối là hoàn toàn sai. Như đã chứng minh trong nội dung bài này, những gì bị cho là sai trong Kinh Thánh là vì sự hạn chế của con người chưa hiểu hết, bởi con người bị khác biệt với ngôn ngữ, văn hóa, bối cảnh, lịch sử, địa lý của các thời kỳ Kinh Thánh. Nói cách khác, những gì con người hiện nay cho rằng sai lạc thì một ngày nào đó con người sẽ thấy đó chinh là những điều kỳ diệu của Kinh Thánh. Vậy chúng ta có thể kết luận rằng: Kinh Thánh chính là hiến pháp của vương quốc Đức Chúa Trời (Hội Thánh) trên đất này. Kinh Thánh hoàn toàn được linh cảm, vô ngộ và có thẩm quyền tối hậu trên mọi lĩnh vực của đức tin Cơ-đốc nói chung, và chân lý về đạo đức và sự cứu rỗi cho toàn nhân loại nói chung.
Bình luận