KẾ HOẠCH VÀ SỰ SÁNG TẠO CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
- Admin
- 8 thg 6
- 14 phút đọc
Quý thầy cô thân mến!
Trong tuần này, chúng ta đã thảo luận về “Kế Hoạch của Đức Chúa Trời” trong Chương 17. Chương này cũng bao hàm những giáo lý quan trọng không thua kém những chủ đề mà chúng ta đã va chạm trải qua từ Tuần đầu tiên đến bây giờ. Khi nói về kế hoạch của Chúa thì có quá nhiều chủ đề quan trọng cần được nói đến. Tuy nhiên, trong phạm vi của phần tổng kết này, chúng ta không thể bỏ qua tính toàn diện trong kế hoạch của Đức Chúa Trời, nghĩa là bao gồm tất cả mọi điều xảy ra liên hệ đến vật chất và tâm linh trong dòng trong thời gian và không gian cách trọn vẹn. Cũng từ định nghĩa này mà chúng ta đã được tác giả Millard giải thích về nhiều quan điểm thần học khác nhau điển hình như: Calvinism, Arminianism, và Calvinism Ôn Hòa.
Đối với thuyết Calvinism, Calvin nhấn mạnh chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời. Con người đã hoàn toàn hư hoại bởi tội lỗi và chỉ có thể được cứu chuộc khi Đức Chúa Trời chọn lựa một cách vô điều kiện (không có sự dự phần nào từ phía con người). Chúa Giê-xu ban sự cứu chuộc của Ngài cho những người được chọn. Nghĩa là những ai thật sự được chọn lựa cho sự cứu rỗi sẽ không bao giờ đánh mất sự cứu rỗi.
Ngược lại, đối với thuyết Arminianism thì Arminius nhấn mạnh đến trách nhiệm và sự tự do của con người. Ông cho rằng Đức Chúa Trời không “tiền định” cho một ai đó được cứu hay bị hư mất, nhưng Ngài dựa trên sự “biết trước” về đức tin của một người nào đó. Ông cũng nhấn mạnh đến sự tự do của con người để chọn lựa việc tin hay không tin. Cũng bởi sự tự do đó mà Ân điển của Chúa cũng có thể bị từ chối. Nói cách khác, những người được cứu cũng có thể mất sự cứu rỗi nếu họ từ bỏ đức tin.
Millard có cách tiếp cận trung dung hơn nhưng thiên về thuyết Calvinism Ôn Hòa hơn là thuyết Arminianism. Bởi vì ông tin vào chủ quyền tuyệt đối của Đức Chúa Trời trong mọi kế hoạch của Ngài, nhưng ông cũng không phủ nhận trách nhiệm và quyền tự do của con người đối với mọi lĩnh vực của đời sống và sự cứu rỗi của họ. Tôi cũng đồng ý với quan điểm này, vì quan điểm này giúp tránh những cực đoan từ cả hai phía, nhưng đồng thời kết hợp được những điểm tích cực của cả hai thuyết.
Tuy nhiên, có những người đặt lại vấn đề là, như vậy kế hoạch của Chúa đã được ấn định trước và không thay đổi, hay là sẽ có thay đổi theo thời gian? Những người đưa ra câu hỏi này đã trưng dẫn trường hợp Chúa thay đổi ý định trừng phạt thành Ni-ni-ve vì họ đã có những đáp ứng tích cực với sứ điệp của Giô-na để chứng minh rằng, Đức Chúa Trời không áp đặt trên ý chí tự do của con người, ngược lại Ngài thay đổi kế hoạch ban đầu tùy thuộc vào phản ứng và hành vi của con người. Nói cách khác, những người thuộc trường phái Thần học mở này cho rằng, kế hoạch của Đức Chúa Trời không mang tính cố định, vì tương lai là những gì mà Đức Chúa Trời có thể thay đổi dựa trên phản ứng của con người.
Với một quan điểm cấp tiến hơn nữa, Thần học Tiến trình (tiệm tiến) còn cho rằng, không phải chỉ trong tương lai mới thấy sự thay đổi của Đức Chúa Trời nhưng ngay cả trong hiện tại. Với cách tiếp cận cố hữu của Thần học Tiến trình là “kinh nghiệm cá nhân”, họ cho rằng Đức Chúa Trời có thể thay đổi kế hoạch trên từng cá nhân ngay trong hiện tại. Ví dụ, khi dân sự thờ bò vàng, Đức Chúa Trời quyết định hủy diệt họ, nhưng bởi sự cầu nguyện của Môi-se thì Ngài đã thay đổi ý định đó. Nói chung, quan điểm của Thần học Mở và Thần học Tiến trình ít nhiều đã ảnh hưởng từ trường phái Arminianism, bởi vì Arminus nhấn mạnh đến ý chí tự do của người, và Đức Chúa Trời phản ứng tùy theo thái độ của họ. Hay nói cách khác, kế hoạch của Đức Chúa Trời không áp đặt thoái hóa (tiền định) đến độ phủ nhận ý chí tự do của con người.
Như đã nói, thuyết Calvinism cho rằng kế hoạch của Đức Chúa Trời là toàn diện và vĩnh cửu, không bị thay đổi theo thời gian hay bị ảnh hưởng từ con người. Có lẽ nhiều người sẽ đặt câu hỏi là tại sao Calvin lại đưa ra quan điểm quá bảo thủ khi cho rằng mọi thứ đã được “tiền định” trong kế hoạch của Đức Chúa Trời và con người hình như mất đi ý chí tự do là đặc tính đến từ Đức Chúa Trời.
Bỏi vì, thuyết Calvinism cho rằng, khi con người phạm tội (A-đam) thì loài người được xem như là chết về mặt tâm linh, và khi một người đã chết thì không thể nào còn có “ý chí tự đo” gì để chọn lựa việc tin hay không tin để được cứu rỗi như thuyết Arminianism đã lập luận. Vì thế, chỉ có một cách duy nhất là Đức Chúa Trời tự mình làm cho những người chết đó được sống lại. Nói cách khác là chính Đức Chúa Trời chọn lựa những người mà Ngài muốn cứu rỗi để khiến tâm linh họ được tái sanh-có khả năng tin và được cứu. Vì vậy, không phải là Chúa phủ nhận quyền tự do của con người, mà con người hoàn toàn không có quyền đó bởi họ đã “chết.”
Tại đây, chúng ta gặp một vấn đề là có những người dựa trên quan điểm của Calvin nói rằng: Đức Chúa Trời tiền định trước mọi sự, vì thế con người không phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Trừ vấn đến đề cứu rỗi như đã nói, trong nhiều lĩnh vực của đời sống nhiều người cho rằng, Chúa “tiền định” hết rồi không cần phải làm gì khác. Ví dụ: Không cần phải truyền giảng, vì Chúa biết ai sẽ được cứu và sớm muộn họ cũng sẽ được cứu. Hay là, không cần phải tranh đấu đối với những bất công, tội ác của xã hội vì Chúa đã tiền định như thế. Ví dụ: Những chính quyền độc tài như cộng sản có tham nhũng, hối lộ, bao che tội ác, đưa dân tộc đến chỗ diệt vong vì bệnh tật thì cũng là ý Chúa. Quý thầy cô hãy suy nghĩ xem điều này có phù hợp với niềm tin của mình hay không nhé! Tôi không nói ở đây nhưng mọi người cũng đã hiểu quan điểm của tôi về điều này.
Trong khi, những người khác thì dựa trên quan điểm thần học của Arminianism cho rằng, dù Đức Chúa Trời biết trước và định trước, nhưng con người vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Ví dụ: Chính Martin Luther đã chống lại sự hữu bại của giáo hội, và Đức Chúa Trời đã đáp ứng với nguyện vọng đó vì nó đúng theo đường lối công chính và thánh khiết của Ngài. Hoặc là, Chúa Giê-su cũng từng ca ngợi Giăng Báp-tít, mặc dầu trước đó ông đã từng chống lại “nhà cầm quyền” là lên án những tội lỗi của vua Hê-rốt. Trong một phương diện khác, ví dụ vua Sau-lơ đã được chọn, nhưng vì thái độ và hành đồng bất tuân Chúa của ông đã làm thay đổi sự chọn lựa của Chúa. Cũng như việc Chúa Giê-su đến để mang Phúc âm cứu rỗi đến cho dân Do-thái trước tiên, nhưng họ đã từ chối nên Phúc âm của Ngài đã mang đến cho dân ngoại.
Tóm lại, quan điểm của Calvin và Arminus đều có ưu điểm và có sự hậu thuẫn của Kinh Thánh. Tuy nhiên, tôi cũng có cùng quan điểm với Tác giả Millard khi ông ủng hộ quan điểm của trường phái Calvinism Ôn Hòa (trung dung): Đức Chúa Trời chọn lựa một ai đó là thuộc về kế hoạch của Ngài, vì Ngài biết trước điều mà con người đó sẽ làm từ sự tự do đã được ban cho họ. Điều này cũng có nghĩa là Đức Chúa Trời không thay đổi quyền tự do mà Ngài đã ban cho con người, cho nên họ cũng có quyền tự do để theo đuổi hoặc từ bỏ sự cứu rỗi đã được ban cho họ. Ví dụ, có hơn một ngàn sinh viên được cấp ID và học bổng để vào học tại CBTS, nhưng chỉ có 10% trăm sinh viên theo học đến cùng, còn lại 90% sinh viên đã bỏ cuộc. Chúa Giê-su cũng từng nói: Có nhiều người được gọi nhưng ít người được chọn phải chăng cũng là cùng một ý này!
Bây giờ chúng ta tạm rời Chương 17 để bước qua chương 18: Công Tác Khởi Thủy Của Đức Chúa Trời (Sự Sáng Thế). Trong Thần học Hệ thống, Giáo lý về sự Sáng Thế đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đặt nền tảng cho toàn bộ niềm tin Cơ-đốc. Vì thế, việc nghiên cứu giáo lý này là điều rất cần thiết.
Thứ nhất, sự Sáng Thế là điểm bắt đầu của toàn bộ nội dung của Kinh Thánh. Cho nên, nắm rõ về sự Sáng thế giúp chúng ta hiểu đúng về bản thể Đức Chúa Trời, bản chất của con người, nguồn gốc của tội lỗi, và nhu cầu về sự cứu chuộc. Nếu nền móng về giáo lý này bị hiểu sai thì toàn bộ hệ thống thần học cũng sẽ trở nên lệch lạc.
Thứ hai, thế giới quan Cơ Đốc được định hình từ giáo lý Sáng Thế. Nó giúp chúng ta biết vũ trụ và con người không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên, mà là một kết quả có mục đích của một Đức Chúa Trời đầy quyền năng và yêu thương. Quan điểm này giúp chúng ta phân biệt được giữa Cơ Đốc giáo với các hệ tư tưởng khác như thuyết tiến hóa hay duy vật biện chứng.
Thứ ba, giáo lý này cũng ảnh hưởng đến đạo đức học của Cơ-đốc giáo. Bởi vì, nếu chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, thì mỗi người đều có phẩm giá và trách nhiệm đối với Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, với con người là đồng loại, và với thế giới mà Ngài đã tạo dựng để chúng ta cai quản. Vì vậy, khi chúng ta nghiên cứu giáo lý Sáng Thế đừng xem nó chỉ là một vấn đề thuần lý thuyết, nhưng phải hiểu rằng nó chính là chìa khóa để hiểu đúng về đức tin, đời sống, và sứ mạng của mỗi người chúng ta trong thế giới này.
Tại đây, chúng ta đặt ra một câu hỏi là, trong thế giới ngày nay, nhiều người chối bỏ hoặc cố tình giải thích sai lạc về giáo lý Sáng Thế bằng những học thuyết thế tục như thuyết tiến hóa hay duy vật biện chứng thì tại sao giáo lý Sáng Thế lại trở nên quan trọng đối với Cơ-đốc nhân.
Trước hết, giáo lý này giúp bảo vệ đức tin của chúng ta trước những tư tưởng sai lệch như đã nói. Bởi vì, khi xã hội chối bỏ một Đấng Tạo Hóa thì Cơ-đốc nhân cần phải hiểu rõ và rao giảng về giáo lý này để chính chúng ta không bị hoài nghi và giải cứu những người vô thần ra khỏi những học thuyết của sa-tan.
Ngoài ra, giáo lý Sáng Thế còn là nền tảng cho phương diện thần học Cơ Đốc. Nếu không tin có sự sáng tạo từ Đức Chúa Trời, thì cũng không còn ý nghĩa gì khi chúng ta nói về tội lỗi, về sự cứu chuộc hay mục đích của đời sống tâm linh. Nói cách khác, những chủ đề thần học khác đều bắt nguồn từ giáo lý khởi đầu này. Vì vậy, sống giữa một xã hội mà con người chối bỏ sự Sáng Thế thì cũng có nghĩa là họ chối bỏ Đấng Tạo Hóa, thì chúng ta là những sinh viên thần học cần phải nắm vững giáo lý này. Tôi muốn nói: không phải để chúng ta chỉ để bảo vệ đức tin (biện giáo), mà còn để chúng ta sống đúng với ý muốn của Chúa là Đấng đã sáng tạo ra chúng ta.
Tuy nhiên, trong một thời đại khoa học phát triển nhanh chóng như ngày này, chúng ta phải đối diện với một vấn đề nan giải đó là sự mâu thuẫn giữa khoa học với sự Sáng Thế của Kinh Thánh. Vì thế, vấn đề này chúng ta không thể bỏ qua hoặc né tránh.
Theo tác giả Millard thì không có sự mâu thuẫn nào giữa sự Sáng Thế của Kinh Thánh với khoa học mà ngược lại cả hai có thể “đối thoại” và giải thích cho nhau. Bởi vì, cả thần học và khoa học đều quan tâm đến cùng một chủ đề chung đó là vũ trụ và sự sống, nhưng do cách tiếp cận vấn đề có khác nhau. Trong khi khoa học cố gắng khám phá cách mà vũ trụ vận hành, còn thì thần học tìm hiểu tại sao vũ trụ hiện hữu. Cũng giống như hai đứa trẻ nhìn xem cái quạt máy đang chạy, một đứa thì hỏi: Tại sao nó có thể tự quay, nhưng đứa kia thì lại hỏi: Ai đã chế tạo ra cái quạt.
Lưu ý, điều quan trọng là chúng ta không nên cực đoan để phủ nhận mọi điều thuộc về khoa học, nhưng cũng đừng cho rằng khoa học là “chân lý” mà đánh mất đức tin hoặc nghi ngờ vào sự bày tỏ của Kinh Thánh về giáo lý Sáng Thế.
Bây giờ, chúng ta sẽ đi ngay vào vấn đề quan trọng và gây nhiều tranh luận nhất trong chủ đề sự Sáng Thế này, đó chính là vấn đề Đức Chúa Trời tạo dựng thế giới trong sáu ngày. Các nhà thần học đã tốn nhiều thời gian và giấy bút để bàn luận về chủ đề này, và nhiều quan điểm đã được đưa ra để giải quyết vấn đề.
Vậy vấn đề chính yếu ở đây là gì? Đó là từ khi ngành khoa học địa chất ra đời, bằng phương pháp phóng xạ carbon 14 vào đầu thế kỷ 20, khoa học có khả năng định tuổi của vật chất trong vũ trụ là gần 14 tỷ năm, và điều này mâu thuẫn với cách tính tuổi của vũ trụ bởi linh mục James Ussher vào đầu thế kỷ 16 là 6000 năm. Chính vì sự chênh lệch về số năm theo hai cách tính của một linh mục (cá nhân) và khoa học, mà từ đó người ta phải đưa ra nhiều thuyết để “bào chữa” cho sự khác biệt về tuổi tác của vũ trụ. Bây giờ chúng ta hãy ôn lại những thuyết về Sáng Thế mà sách Giáo khoa đã nói.
Trước tiên, thuyết Khoảng Trống hay còn gọi là thuyết Kỷ Nguyên. Để giải thích cho sự chênh lệch số tuổi của vũ trụ, thuyết này cho rằng vũ trụ đã được tạo dựng hoàn thành trước đó nhiều tỷ năm, nhưng bởi một thảm họa nào đó mà vũ trụ phải được tái tạo lại cách thứ tự trở lại. Vì vậy, cách tính tuổi của khoa học là thuộc về vũ trụ đầu tiên, còn cách tính của Ussher là thuộc về vũ trụ và trái đất được tái tạo lại sau đó.
Thứ hai, thuyết Hồng Thủy thì cho rằng thực chất trái đất và vũ trụ được tạo dựng chỉ trong vài ngàn năm, nhưng cơn đại Hồng thủy thời Nô-ê đã tạo ra một sự thay đổi về mặt cấu trúc của vật chất, và từ đó cách tính tuổi của vũ trụ bởi khoa học có phần nhiều hơn là hoàn toàn hợp lý.
Thứ ba, thuyết Thời Gian Lý Tưởng cho rằng vũ trụ được tạo ra đúng theo cách Kinh Thánh mô tả là sáu ngày theo cách tính của con người là 24 giờ/ngày. Tuy nhiên, vật chất mà Ngài tạo ra từ cõi vô hình vào thế giới hữu hình này là siêu thời gian. Cho nên, khi chúng ta đem đo độ tuổi những vật thể siêu thời gian đó bằng cách tính của loài người thì chúng có biên độ tuổi đến nhiều tỷ năm cũng là điều bình thường.
Thứ tư, thuyết Ngày Thời Đại, thuyết này dựa trên cách giải thích từ ngữ trong Sáng thế Ký (yom/ngày) để giải thích rằng chữ “ngày” đó không nhất thiết phải hiểu là 24 giờ, mà có thể hiểu là một chu kỳ (nhiều ngàn năm). Cho nên, cách tính của khoa học là không có gì mâu thuẫn với Kinh thánh.
Thư năm, thuyết Ngày Hình Ảnh cho rằng trước giả của sách Sáng thế Ký được cho thấy cách Đức Chúa Trời sáng tạo thế giới trong sáu chu kỳ và mỗi chu kỳ có thể cách xa nhau nhiều tỷ năm, nhưng Môi-se đã sắp xếp lại thành sáu ngày và chia ra thành từng nhóm cho có tính logic vậy thôi.
Như vậy, chúng ta sẽ cho thuyết nào là hợp lý nhất? Trước tiên, chúng ta cần phải nhớ rằng, trước khi phương pháp đo tuổi vật chất ra đời thì chưa có ai nghi ngờ rằng vũ trụ không được tạo ra trong sáu ngày theo cách tính ngày-đêm là 24 giờ. Tôi muốn nói rằng, theo niềm tin truyền thống thì không có gì để nghi vấn về “từ ngữ” mà Kinh Thánh đã nói. Kế đến, chúng ta cũng phải hiểu rằng cách tính của Ussher không phải là chính xác tuyệt đối. Như vậy, chúng ta có hai vấn đề cần được giải quyết: Một là sự khác biệt về cách tính tuổi của vũ trụ giữa khoa học và Ussher, và vấn đề thứ hai là chữ “ngày” có phải là 24 giờ hay không.
Vấn đề thứ nhất, sự khác biệt về cách tính tuổi của vũ trụ giữa khoa học và Ussher. Tôi cho rằng thuyết Thời Gian Lý Tưởng là tạm chấp nhận được. Nếu Ussher tính tuổi của vũ trụ và trái đất dựa trên các thông số của chính Kinh Thánh là đúng, mà nó lại mâu thuẫn với cách tính của khoa học thì cũng không có gì là khác thường. Bởi vì, những vật chất nguyên thủy mà Chúa tạo ra bản chất của nó là siêu biên độ thời gian, nên khi chúng ta đem phương pháp đo của khoa học thì tuổi của chúng đã có nhiều tỷ năm mặc dù chúng chỉ mới vừa xuất hiện vài ngàn năm mà thôi. Tôi lấy ví dụ: Khi Chúa Giê-su hóa nước thành rượu, nếu lúc đó có các nhà khoa học ngày nay hiện diện, họ sẽ phân tích và nói rằng, chất liệu của rượu này đã có nhiều ngàn năm trước, bởi vì thành phần của rượu là mẹn, nước, hay trái nho đều đã có trên trái đất này từ khi sáng thế. Một ví dụ khác, đảo Iwo Jima tại Nhật vừa xuất hiện vào năm 2023 do núi lửa phun trào, nhưng nếu chúng ta đem đo độ tuổi bằng Carbon 14 thì nó đã có độ tuổi hàng triệu năm, mặc dù nó chỉ mới xuất hiện có hai năm gần đây.
Vấn đề thứ hai, từ “ngày và đêm” trong Kinh Thánh có phải là 24 giờ/ngày hay không. Vấn đề này thì tôi cũng cho rằng thuyết Thời Gian Lý Tưởng tương đối hợp lý hơn. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời tạo dựng vũ trụ và trái đất này trong sáu ngày đúng theo nghĩa đen và đúng theo thứ tự mà Kinh Thánh đã nói. Bởi vì, bước qua đoạn 2 của sách Sáng Thế Ký, Kinh Thánh nói đến “ngày thứ bảy” thì Đức Chúa Trời nghỉ sau khi đã hoàn tất mọi việc, và Ngài biệt riêng ngày đó ra làm ngày thánh. Như vậy rõ ràng chữ “ngày-đêm” trong đoạn 2 là nói về cùng một ngày 24 giờ chứ không thể là một thời kỳ nhiều tỷ năm như thuyết Khoảng Trống và thuyết Ngày Thời Đại đã nói. Chúng ta không được bỏ qua một trong những nguyên tắc giải kinh là phụ thuộc và văn mạch của Kinh Thánh. Một nguyên tắc giải kinh quan trọng khác nữa đó là đối chiếu với “cái nhìn” toàn diện của cả Tân/Cựu Ước. Trong Tân Ước, chính trước giả sách Hê-bơ-rơ khẳng định lại ý (ngày/24 giờ) này khi ông nói: “Đức Chúa Trời đã nghỉ ngày thứ bảy sau khi làm xong các công việc.” (Hê-bơ-rơ 4:4). Ngay như chính Chúa Giê-su cũng xác nhận ngày Sa-bát là ngày nghĩ (Mác 2:27). Vậy thì nó phải là 24 giờ chứ không thể nào là một “khoảng trống.”
Tóm lại, điều quan trọng là chúng ta không quá chú trọng đến một yếu tố nhỏ mà bỏ qua một bức tranh toàn cảnh. Tôi muốn nói rằng, khoa học chú tâm vào vấn đề tính tuổi của vũ trụ và đưa ra kết luận rằng Kinh Thánh mâu thuẫn, trong khi những người dựa vào khoa học lại bỏ qua yêu tố quan trọng hơn đó là, tại sao vũ trụ này lại quá vĩ đại nhưng lại rất trật tự và tạo ra những kết quả tốt đẹp một cách có chủ đích như thế? Như vậy, câu hỏi quan trọng cần phải hỏi là: Ai đã tạo ra vũ trụ này? Và vũ trụ này được tạo dựng ra để làm gì? Khi hỏi như thế, người ta sẽ tìm ra được câu trả lời từ Kinh Thánh là: Đức Chúa Trời là Đấng tạo ra vũ trụ này, và Ngài tạo ra vũ trụ này vì sự vinh hiển của Ngài; con người là một phần trong sự sáng tạo của Ngài.
Bình luận