top of page

HAI NGUỒN MẠC KHẢI

  • Ảnh của tác giả: Admin
    Admin
  • 25 thg 5
  • 14 phút đọc

Quý thầy cô thân mến!


Tuần học đầu tiên này, chúng ta đã thảo luận về hai vấn đề quan trong trong Thần học Hệ thống là sự khải thị tổng quát và khải thị đặc biệt. Như chúng ta đã nói trong lớp học trước (Thần Học Hệ Thống I), thần học là một môn khoa học nghiên cứu về Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của chúng ta là Đức Chúa Trời, Đấng Vô Hạn, và Ngài không thuộc về thế giới quan của con người chúng ta; vì thế chúng ta cần có sự khải thị từ Ngài, và dựa trên sự khải thị đó chúng ta khám phá và nghiên cứu về sự hiện hữu của Ngài.


Theo sách Giáo khoa của môn học này, chúng ta được biết có hai sự khải thị chính yếu đó là khải thị tổng quát và khải thị đặc biệt. Nói rõ hơn, khải thị tổng quát là Đức Chúa Trời có bày tỏ về chính mình Ngài cách gián tiếp qua thiên nhiên, lịch sử, và con người. Trong khi khải thị đặc biệt thì Đức Chúa Trời lại bày tỏ trực tiếp qua lời nói của các thánh tổ, các tiên tri trong Cựu-ước, qua chính Con Ngài là Chúa Giê-su Christ trong Tân-ước, và cũng như những lời được các sứ đồ viết lại bởi sự cảm ứng của Đức Thánh Linh. Nói chung, khải thị đặc biệt được hiểu là toàn bộ Kinh Thánh.


Trong khóa học trước, chúng ta đã thấy có Thomas Aquinas là người đã xây dựng triết học Tự nhiên Thần luận (thần học tự nhiên). Học thuyết này vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trên giáo hội Công giáo cho đến ngày nay; và ngay trong giới Tin-lành thì cũng có rất nhiều người áp dụng trong giảng dạy về sự khải thị tổng quát và thần học tự nhiên. Những vấn đề quan trọng được đặt ra là chúng ta có nên xem khải thị tổng quát là một môn thần học riêng biệt, và khải thị tổng quát có thật sự giúp con người nhận biết Đức Chúa Trời mà không cần sự khải thị đặc biệt được hay không? Như giáo hội Công giáo, trong Công đồng Vatican II đã áp dụng và biến-tấu Tự nhiên Thần luận của Thomas để công nhận cái gọi là “tia sáng chân lý”, nghĩa là trong các loại tôn giáo và văn hóa đều có sự khải thị của Chúa. Nói cách khác, nếu chúng ta nhìn nhận quan điểm cho rằng khải thị tổng quát có thể giúp con người nhận biết Đức Chúa Trời thì khải thị đặc biệt không còn quan trọng nữa. Bây giờ, chúng ta hãy cùng xem xét giả thuyết này là đúng hay sai.


Như đã nói, khải thị tổng quát dựa trên ba yếu tốt là thiên nhiên, lịch sử và con người-nói đúng hơn là lương tâm con người. Nhiều người mạnh mẽ tin rằng những yếu tố này đã được minh chứng rõ ràng cho một quan điểm thần học riêng biệt của khải thị tổng quát, bởi vì chính các trước giả của Kinh Thánh đã áp dụng. Nói cách khác là những người này tin rằng Kinh Thánh đã nói rằng Chúa khải thị chính Ngài qua thiên nhiên, lịch sử, và lương tâm con người.


Tác giả Thi thiên 19:1-2 nói vũ trụ này chứng tỏ sự sáng tạo của Chúa, và Phao-lô nói trong thư Rô-ma 1:1-2 rằng mọi tạo vật trong thế giới này đã chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Đúng vậy, như một nhà biện giáo (ẩn danh) thời các giáo phụ đã nói “Chúa có để lại dấu vân tay trong các tạo vật của Ngài.” Hay một nhà thần học hiện đại là McGrath đã nói, “vũ trụ có thể đọc được như một bản văn thần học, nơi Chúa để lại dấu ấn của Ngài.”


Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng, trước giả của Thi thiên 19 là vua Đa-vít, một người được soi sáng bởi Thánh Linh, cũng như Phao-lô, trước giả của Rô-ma 1 là một sứ đồ đầy ơn. Nói rõ hơn, Kinh Thánh nói về việc Chúa bày tỏ chính Ngài qua thiên nhiên, nhưng chân lý đó được nhận diện bởi những người được nhận lãnh sự soi sáng từ Thánh Linh, chứ không phải đến từ những con người thiên nhiên (chưa được cứu). Bằng chứng là trong Rô-ma 1, Phao-lô đã lên án con người, vì họ không nhận biết Chúa qua sự khải thị của Ngài trong cõi thiên nhiên này. Ngược lại, họ lại hiểu sai và qui sự sáng tạo của Chúa cho các loại tôn giáo và thần tượng giả mạo. Điều này hoàn toàn đúng, đặc biệt là đối với người Việt nam chúng ta.


Còn về yếu tố lịch sử thì Phao-lô cũng đã luận giải trong Công vụ 17:26-27 rằng, Chúa là Đấng ấn định ranh giới, thời gian trong dòng lịch sử của các dân tộc để họ nhìn biết Ngài. Và, trong Đa-ni-ên 2:21 thì tiên tri Đa-ni-ên đã nói, Chúa là Đấng lập và phế các vua. Hoặc trong lịch sử Tuyển dân thì chính Chúa đã can thiệp để giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi vua Ai-cập. Ngài cũng đã hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ. Hay trong lịch sử cận đại thì Ngài đã dùng Hoa Kỳ và phe đồng kinh tiêu diệt Đức Quốc Xã để cứu dân Do-thái. Tiếp theo sau là Ngài làm tan rã khối cộng sản Liên Xô để mang tự do đến cho các dân tộc nói chung và Hội Thánh nói riêng tại các nước thuộc Đông-âu.


Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng: Dân Y-sơ-ra-ên được Chúa cứu ra khỏi Ai-cập nhưng ngay sau đó họ cũng trở lại thờ con bò vàng. Chúa hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, nhưng các dân tộc xung quanh cũng vẫn không nhìn biết Chúa. Hoặc là, Chúa giải cứu dân Do-thái khỏi bị tuyệt chủng bởi Hitler nhưng họ vẫn tiếp tục là một dân tộc vô tín. Ngoài ra, trong lịch sử luôn tồn tại điều sai trái và tội ác như: Đức Quốc Xã giết sáu triệu người Do-thái, Khơ-me Đỏ giết chết ba triệu người Campuchia, và Đảng Cộng Sản Việt Nam giết chết hàng trăng ngàn đồng bào Miền-bắc trong cải cách ruộng đất và chôn sống hàng chục ngàn đồng bào Huế trong Tết Mậu Thân. Cho nên, nếu chúng ta chủ quan cho rằng Chúa hoàn toàn kiểm soát lịch sử thì đồng nghĩa với việc cho rằng Ngài phải chịu trách nhiệm về những tội ác của con người trong lịch sử. Ngoài ra, trong lịch sử chúng ta đã từng chứng kiến việc con người tôn tặng một cá nhân hoặc một thần thánh nào đó cho những sự kiện lịch sử của dân tộc họ thay vì Đức Chúa Trời.


Sau cùng là yếu tố lương tâm con người, và điều này cũng đã được Phao-lô giải thích trong Rô-ma 2:14-16 rằng, con người (người ngoại) không biết luật pháp (điều răn) nhưng họ vẫn làm những điều như luật pháp của Chúa dạy bảo, bởi vì họ có lương tâm (lòng đạo đức), thì điều đó chứng tỏ rằng trong bản thể con người đã có sẵn dấu ấn đạo đức của Chúa trong họ, và điều này cũng đã được vua Sa-lô-môn nói trong Truyền đạo 3:11.


Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên, Kinh Thánh nói lương tâm của con người bị “chai lỳ” vì các thứ tôn giáo của ma quỷ (I Ti-mô-thê 4:2), và bị “ô uế” bởi tội lỗi (Tít 1:15). Vì thế, lương tâm con người không luôn luôn phản ánh đúng tiêu chuẩn đạo đức của Chúa, nhưng bị thay đổi theo thời gian, môi trường sống, hệ tư tưởng, và giáo dục. Ví dụ: Tạo sao con người (kể cá các Cơ-đốc nhân) trong các xã hội thuộc cộng sản xem việc nói láo là bình thường? Vì họ sống trong một môi trường không xem trọng tín nhiệm mà khuyến khích sự dối trá, nếu không nói láo sẽ không thể tồn tại hoặc thăng tiến. Ngược lại, tại sao con người (kể cả các Cơ-đốc nhân) trong các xã hội tự do lại xem việc ly dị là bình thường? Bởi vì họ sống trong một môi trường bị ảnh hưởng bởi triết lý hiện sinh và chủ nghĩa tự do cá nhân.


Tóm lại, qua sự phân tích như trên, chúng ta thấy quan điểm chủ quan của Thomas Aquinas về khải thị tổng quát, đặc biệt là qua yếu tố thiên nhiên của ông có thể đưa đến sự lạm dụng khi cho rằng, con người có thể nhận biết Chúa qua khải thị tổng quát. Trong khi Karl Barth thì lại quá khích trong việc chống đối sự hữu ích của của khải thị tổng quát mà chỉ chấp nhận sự khải thị qua Đấng Christ. Ở giữa hai quan điểm đối lập của Thomas và Barh thì có quan điểm trung dung của Emil Brunner khi ông cho rằng khải thị tổng quát là “điểm tiếp xúc” giữa khải thị tổng quát và khải thị đặc biệt. Nhưng quan điểm của John Calvin là phù hợp hơn hết. Ông cho rằng vì con người đã bị hư hoại từ ban đầu và do bản chất tội lỗi nên con người không thể nhận biết Chúa qua khải thị tổng quát nếu không có chân lý Kinh Thánh và sự soi sáng của Đức Thánh Linh, hay ông còn gọi là “cặp mắt kính của đức tin”.


Như vậy, giả thuyết ban đầu cho rằng khải thị tổng quát có thể được xem như một môn thần học riêng biệt là không đủ cơ sở. Bởi vì khải thị tổng quát không có đủ Kinh Thánh hỗ trợ, và nó không thể đưa ra bằng chứng rõ ràng về việc con người có thể nhận biết Chúa mà không cần khải thị đặc biệt, nếu không muốn nói là có quá nhiều bằng chứng chống lại luận điểm này. Điều này cũng đồng nghĩa với giả thuyết cho rằng khải thị tổng quát có thể thay thế hay không cần đến khải thị đặc biệt là hoàn toàn sai. Bởi vì, khải thị tổng quát chỉ có thể là “điểm tiếp xúc” chứ không thể thay thế khải thị đặc biệt. Nó không giúp con người nhận biết Chúa đúng nghĩa, và tất nhiên là không bao giờ giúp con người có thể tiếp cận với sự cứu rỗi của Chúa Giê-su Christ là trọng tâm của sự mặc khải.


Bây giờ chúng ta tạm rời sự khải thị tổng quát, Chương 8 để bước qua sự khải thị đặc biệt, Chương 9.


Như chúng ta đã nói ở trên, khải thị tổng quát chỉ có thể là “điểm tiếp xúc” chứ không thể đóng vai trò riêng biệt hay thay thế khải thị đặc biệt. Lý do là con người bị giới hạn trong tội lỗi nên cần có “cặp kính của đức tin.” Nói cách khác, con người đã bị xa cách với Chúa do tội lỗi, nên dầu Chúa có bày tỏ chính mình Ngài qua khải thị tổng quát thì con người cũng không nhận ra Ngài. Đó chính là lý do con người cần có sự khải thị đặc biệt để con người nối lại mối tương giao với Ngài qua sự cứu rỗi trong Đấng Christ. Hay nói rõ hơn, trọng tâm của mặc khải đặc biệt chính là sự cứu chuộc trong Con Ngài là Chúa Giê-su Christ.


Như vậy, nếu nói sự tương phản giữa khải thị tổng quát và khải thị đặc biệt là gì? Khải thị tổng quát là gián tiếp còn khải thị đặc biệt là trực tiếp mặc khải về Đức Chúa Trời. Khải thị tổng quát là phổ quát (cho mọi người) còn khải thị đặc biệt là đặc thù (qua Tuyển dân). Khải thị tổng quát không có Đấng Christ còn khải thị đặc biệt trọng tâm là Đấng Christ. Tuy nhiên, nếu sự khải thị tổng quát được biết đến qua ba yếu tố là thiên nhiên, lịch sử, và con người thì, khải thị đặc biệt cũng được biết đến với ba yếu tố là lịch sử Tuyển dân, các tiên tri, và Con.


Trước tiên chúng ta nói về yếu tố lịch sử Tuyển dân trong khải thị đặc biệt có khác biệt gì so với yếu tố lịch sử nhân loại trong khải thị tổng quát. Ví dụ, chúng ta nói Chúa đã cứu dân Do-thái khỏi sự tuyệt chủng bởi Hitler thì đó là một giả định dựa trên yếu tố đến từ Kinh Thánh rằng Chúa yêu thương dân của Ngài nên Ngài sẽ giải cứu họ, nhưng không có một bằng chứng xác thực nào về điều đó. Nhưng trong khải thị đặc biệt thì ngược lại, nó là một bằng chứng xác thực rằng Chúa đã làm điều đó trong thời gian thực. Ví dụ, Chúa cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập thì đó là một sự kiện thật đến từ ý chỉ, mạng lệnh, và quyền phép đến từ Ngài. Sách giáo khoa cũng có đưa ra vấn đề là những bằng chứng lịch sử trong Kinh Thánh đó có phải là được thuật lại và diễn giải như cách mà chúng ta diễn giải sự kiện Hitler và dân Do-thái hay không? Câu trả lời là không! Bởi vì, những sự kiện lịch sử đó được chính người trong cuộc là Môi-se tường thuật (bởi Chúa), và dòng lịch sử tiếp theo cũng đã nhìn nhận vấn đề như thế, và chính Chúa Giê-su cũng đã xác nhận đó là sự kiện của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, cũng có những người như Ernest Wright cho rằng: “Thật ra, Kinh Thánh không phải là Lời Đức Chúa Trời, mà đúng hơn là một bản kí thuật về Công-vụ của Đức Chúa Trời, và đáp ứng của con người đối với những việc làm đó.” Lập luận như Ernest Wright là hoàn toàn phiến diện, nói đúng hơn là ông ta chỉ dựa trên yếu tố lịch sử mà bỏ qua yếu tố tiên tri. Bởi vì sự mặc khải đặc biệt không chỉ là một “bản kí thuật” về những sự kiện lịch sử mà còn là những lời phán trực tiếp của Chúa mà chúng ta gọi là các lời tiên tri. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu yếu tố thứ hai là các tiên tri.


Yếu tố thứ hai trong sự khải thị đặc biệt là qua các tiên tri của Ngài. Nghĩa là Đức Chúa Trời chủ động mạc khải về Ngài và ý định cũng như công việc của Ngài thông qua những người mà Ngài chọn lựa. Như vậy vấn đề được đặt ra là yếu tố thứ hai (các tiên tri) này có liên quan đến yếu tố thứ nhất (lịch sử) hay hai yếu tố là những phần riêng biệt?


Tuy cách giải thích về phương diện thần học thì chúng ta phân ra trước sau giữa hai yếu tố lịch sử và các tiên tri, nhưng thực tế thì cả hai yếu tố này được liên kết và bổ túc cho nhau. Ví dụ, lời tiên tri Chúa ban cho Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ giải cứu hậu tự của ông tại Ai-cập, và rồi hơn 400 năm sau lời tiên tri đó ứng nghiệm và đã trở thành một biến cố lịch sử của Đức Chúa Trời đã làm. Như vậy, chúng ta thấy lời tiên tri có trước và sự kiện lịch sử có sau. Hay nói cách khác là lời tiên tri minh chứng cho lịch sử chính là sự mặc khải của Chúa.


Cũng có người cho rằng, phải chăng lời tiên tri chỉ là sự cảm hứng cá nhân hơn là những lời phán trực tiếp của Đức Chúa Trời. Dựa trên lý luận này nhiều người như David Kelsey nói: “việc sử dụng mọi dữ liệu Kinh Thánh để xây dựng thần học sẽ có phần lạc hướng.” Ý ông ta muốn nói rằng không phải tất cả mọi lời trong Kinh Thánh đều là lời Đức Chúa Trời. Với quan điểm này giáo hội Giám-lý xác nhận rằng: Kinh Thánh có lời Đức Chúa Trời, chứ không phải Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời, vì họ cho rằng Kinh Thánh cũng có lời riêng của Phao-lô, thậm chí là lời của ma quỷ nữa. Quan điểm này là hoàn toàn sai lầm. Bởi vì Kinh Thánh nói “toàn bộ Kinh Thánh đều được Chúa soi dẫn” (II Ti-mô-thê 3:16-17). Ngoài ra, toàn bộ Kinh Thánh còn có vô số lần nói rằng: Đức Giê-hô-ha/Đức Chúa Trời phán. Đó chính là những lời phán trực tiếp của Đức Chúa Trời chứ không phải chỉ là những lời được cảm hứng của các tiên tri mà thôi. Ví dụ: Khi còn ở trong tù cộng sản, ba của tôi, ông nhờ một người bạn tù được tự do đến gia đình tôi và chuyển lại lời của ông rằng: Phải tìm cách rời khỏi vùng Kinh Tế Mới mà trở lại Sài-gòn. Dầu những lời dặn dò đó ra từ miệng của một người xa lạ, nhưng gia đình chúng tôi hoàn toàn xem những lời đó chính là lời của ba tôi đang nói.


Đối với quan điểm của Tân chính thống thì nói rằng: "Sự khải thị là một điều gì đó xảy ra, chứ không phải là một điều gì đó hiện diện. Ý nói rằng, Kinh thánh không phải là điều Chúa đã khải thị, mà qua Kinh Thánh, Chúa sẽ khải thị. Chúng ta không phủ nhận việc có rất nhiều người đã nhận được sự khải thị của Chúa qua Kinh Thánh mà có đời sống được biến đổi hoặc làm những việc lớn lao cho công việc nhà Chúa. Ví dụ như kinh nghiệm tuyệt vời của David Yonggi Cho. Nhưng những kinh nghiệm cá nhân này không thể thay thế cho yếu tố khách quan và thẩm quyền vĩnh cửu của Kinh Thánh. Bằng chứng là chính Chúa Giê-su khi Ngài đối diện với ma quỷ, hay các thần thống giáo và người Pha-ri-si thì Ngài trích dẫn Kinh Thánh như là một thẩm quyền trực tiếp chứng không phải là một “trải nghiệm” nào đó từ Kinh Thánh. Tóm lại, đây là quan điểm của thần học Tân Chánh thống-đề cao trải nghiệm cá nhân để diễn giải Kinh Thánh như một số trường phái ấn tứ ngày nay đang làm.


Trường phái thần học tự do còn lập luận rằng, những lời tiên tri thông qua ngôn ngữ của con người để diễn đạt thì không thể nào chuyển tải đầy đủ ý muốn của Đức Chúa Trời, do đó các lời tiên tri chỉ mang tính “ẩn dụ” hơn là lời chính xác của Chúa. Nếu nói như vậy thì vô hình trung là phủ nhận thẩm quyền của Kinh Thánh, và nghi ngờ chân lý tuyệt đối của Kinh Thánh. Cho dù là ngôn ngữ của con người có hạn chế, nhưng qua sự soi dẫn của Đức Thánh Linh thì Đức Chúa Trời vẫn có thể truyền đạt ý muốn của Ngài cho con người bằng chính ngôn ngữ của họ. Chính Chúa Giê-su cũng không nghi ngờ về tính hạn chế của ngôn ngữ, ngược lại Ngài xác nhận toàn bộ Kinh Thánh (luật pháp, lời tiên tri, các thi ca) làm chứng về Ngài (Lu-ca 24:44). Tóm lại, sự khải thị qua yếu tốt lịch sử và qua các tiên tri để dẫn đến cao điểm của sự khải thị đặc biệt chính là sự mặc khải qua chính Con Đức Chúa Trời là Chúa Giê-su Christ.


Bây giờ chúng ta hãy bước qua yếu tố sau cùng của sự khải thị đặc biệt là qua Chúa Giê-su Christ.


Câu hỏi đầu tiên được đặt ra là, có phải Chúa Giê-su cũng giống như các tiên tri đến để nói về Đức Chúa Trời, và qua Ngài mà chúng ta biết về Đức Chúa Trời? Câu trả lời tất nhiên là không phải vậy. Ngài không phải là “phát ngôn nhân” của Đức Chúa Trời như các tiên tri trong Cựu-ước, nhưng Ngài chính là chủ thể của Đức Chúa Trời trong xác thịt loài người (Giăng 1:14). Các tiên tri không có một trải nghiệm cá nhân nào về bản thể của Đức Chúa Trời, những chỉ thuần túy là nghe được tiếng Ngài và thuật lại, nhưng Chúa Giê-su thì ngược lại, Ngài ở trong Đức Chúa Trời nên những gì mà Ngài bày tỏ về Đức Chúa Trời là hoàn toàn chính xác (Giăng 1:18).


Nếu Chúa Giê-su chỉ công bố bằng lời nói thì cũng sẽ bị xem như các tiên tri không hơn không kém. Nhưng Chúa Giê-su không chỉ thuần túy công bố Ngài đến từ Đức Chúa Trời bằng lời nói mà Ngài đã chúng minh bằng hành động qua các phép lạ phi thường. Có lần Chúa Giê-su đã nói với các tính giả của Ngài rằng, nếu họ không tin lời của Ngài thì cũng nên tin những gì mà Ngài đã làm (Giăng 10:37-38).


Có lẽ, cũng có người cho rằng, có ai đó cũng có khả năng làm những việc mà Chúa Giê-su đã làm. Ví dụ, khoa học ngày nay cũng có thể chữa lành nhiều thứ bệnh tật, hoặc cứu sống những người một chân bước vào sự chết. Có thể tạm cho lập luận này là có lý của nó, nhưng có một điều mà Chúa Giê-su đã làm thì không một ai có thể làm được đó chính là sự phục sinh từ kẻ chết của Ngài. Sự phục sinh của Chúa Giê-su cũng chính là đỉnh điểm của sự mặc khải đặc biệt của Đức Chúa Trời cho con người về tình yêu và chương trình cứu rỗi con người.

Bài đăng gần đây

Xem tất cả
SỰ QUAN PHÒNG CỦA CHÚA

Tổng Kết Tuần 6 Quý thầy cô thân mến! Vậy là chúng ta đã thảo luận Chương 19: Sự quan phòng của Chúa, và Chương 20: Thế giới và điều ác...

 
 
 
TÍNH NỘI TẠI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Quý thầy cô thân mến! Nếu quý thầy cô còn nhớ thì trong tuần trước tôi có lấy một ví dụ giữa tôi và con kiến: Trong khi tôi quan sát nó...

 
 
 

Bình luận


bottom of page