top of page

BẢN THỂ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

  • Ảnh của tác giả: Admin
    Admin
  • 26 thg 5
  • 13 phút đọc

Quý thầy cô thân mến!


Trong tuần qua có nhiều việc xảy ra khiến tôi phải suy nghĩ nhiều. Tôi đã tự hỏi mình nhiều điều…! Nhưng rồi Chúa Thánh Linh có an ủi lòng tôi rằng: Bỏ cuộc thì ai cũng làm được, nhưng trung tín (bền chí) đến cuối cùng thì mới là điều Chúa muốn nhìn thấy. Đức Thánh Linh đã khích lệ tôi tiếp tục bước tới bằng sức mới của Ngài. Tôi chia sẻ điều này vì muốn xin quý thầy cô hãy cầu thay cho tôi nhiều hơn. Bây giờ chúng ta hãy trở lại với bài học.


Tuần này, chúng ta tạm chia tay với sự khải thị đặc biệt của Chúa là Kinh Thánh nói về những chủ đề như: sự linh cảm, sự vô ngộ, và uy quyền của lời Chúa. Có lẽ chúng ta còn nhớ “lời Chúa được linh cảm trọn vẹn, nên lời Ngài là vô ngộ trọn vẹn, vì thế lời Ngài cũng có thẩm quyền tuyệt đối.” Còn bây giờ, chúng ta bước qua một chủ đề mới đó là, bản thể của Đức Chúa Trời. Tác giả Millard cho rằng chủ đề này là một phần quan trọng nhất trong Thần học Hệ thống. Trong hai Chương 13 & 14 chúng ta đã thảo luận về hai vấn đề liên quan đến bản thể của Chúa là sự cao trọng và sự thiện hảo của Đức Chúa Trời.


Trước tiên, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sự cao trọng của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, sự cao trọng ở đây chính là những thuộc tánh của Chúa. Sách giáo khoa thì chia thuộc tánh của Chúa làm hai nhóm đó là, thuộc tính cao cả và thuộc tánh thiện hảo, nhưng trong giáo lý thì chúng ta lại gọi đó là thần tánh và mỹ đức của Chúa. Khi nói đến một Đấng có thuộc tánh và những mỹ đức tức là, chúng ta đang nói đến một Đấng có thân vị (person), hoặc nói theo đúng ngôn ngữ thân học là, một Đức Chúa Trời hữu ngã. Đây chính là giáo lý quan trọng của Thần Học Chánh Thống so với các trường phái triết học Hy-lạp và các nhánh thần học không chánh thống bởi vì, họ phủ nhận một Đức Chúa Trời hữu ngã (có thân vị.) Chúng ta sẽ cùng lần lượt xem qua những quan điểm phi-chánh thống đó là gì.


Có thể nói, hầu hết các trường phái triết học Hy-lạp đều không tin và một Đấng hữu ngã. Ví dụ như một trường phái được nói đến trong sách Công vụ 17:18 là phái Epicuriens, những người này nghe Phao-lô nói về một Đức Chúa Trời đã xuống thế làm người, tức là Đấng Christ thì họ rất ngạc nhiên, bởi lẽ họ không tin rằng có một thực thể quyền năng hữu ngã nào hiện diện. Ngay như phái Platonism (triết gia Plato) cũng vậy, mặc dầu quan điểm của Plato được các nhà thần học như Augustine và Clement rất yếu thích vì, ông cho rằng có một thực thể tối cao tồn tại và là nguyên lý cho sự tồn tại của vũ trụ. Tuy nhiên, Plato không cho rằng đó là một Thượng đế hữu ngã. Hoặc là phái Aristotelianism (triết gia Aristotle) là trường phái triết học đã ảnh hưởng lớn trên Thomas Aquinas, như chúng ta đã thấy ông nói rất nhiều về quan điểm của Aristotle trong thần học tự nhiên. Tuy nhiên, Aristotle cũng không nhìn nhận một Thượng đế hữu ngã. Vậy còn đối với các nhà thần học và các trường phái thần học phi-chánh thống thì nói gì về vấn đề thân vị của Đức Chúa Trời? Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu một vài trường phái điển hình dưới đây.


Tác giả cũng đã đề cập đến các trường phái thần học không tin vào một Đức Chúa Trời hữu ngã. Điển hình là Thần Học Tiệm Tiến và thần học hậu hiện đại, họ không hoàn toàn phủ nhận chân lý về thân vị của Đức Chúa Trời, nhưng cách giải thích của họ làm nhẹ đi thân vị tính của Đức Chúa Trời. Trong khi đó, Thần Học Tự do, và thần học phi cá nhân thì gần như tin vào quan điểm phiếm thần-phủ nhận một số thuộc tánh của Đức Chúa Trời, hay nói cách khác là họ cũng không chấp nhận một Đức Chúa Trời có thân vị.


Đối với chúng ta, không chỉ dựa vào quan điểm của thần học chánh thông mà căn cứ vào chính Kinh Thánh, chúng ta tin rằng, Đức Chúa Trời không chỉ là một ý niệm về một năng lực siêu nhiên mờ hồ vô ngã nào đó tồn tại, nhưng lại cho rằng năng lực đó có khả năng sáng tạo và bảo trì thế giới này, đó là một sự giải thích rất phi-logic. Việc này cũng giống như chúng ta nói: chiếc đồng hồ xinh đẹp và là một chiếc máy đo thời gian tuyệt vời, nhưng lại do một năng lực của gió tạo ra, thay vì phải tin rằng có một vị kỹ sư với một khối óc thông minh và hoàn toàn là một con người hữu ngã tạo ra. Đó là một niềm tin và một sự giải thích phi-logic. Nhưng đối với quan điểm chánh thống, chúng ta tin vào sự mặc khải của Kinh Thánh, chúng ta biết có một Đức Chúa Trời hữu ngã, Ngài có thân vị rõ ràng được thể hiện qua cảm xúc, ý chí, quyết định, và sự khôn ngoan, và đặc biệt là Ngài đã tương giao với con người qua vũ trụ này, qua Kinh Thánh, và qua chinh Con Ngài. Tác giả Millard cũng có đồng quan điểm về một Đức Chúa Trời hữu ngã như thế. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về hai thuộc tánh quan trọng của Đức Chúa Trời là sự tự hữu, vô hạn của Ngài.


Sách giáo khoa đã có đề cập đến Thần Học Tiệm Tiến, người đại diện là Alfred North Whitehead, ông ta đã phủ nhận sự tự hữu của Đức Chúa Trời. Vì họ cho rằng Đức Chúa Trời và thế giới này cùng tồn tại song song và chịu ảnh hưởng lẫn nhau, và vì thế Đức Chúa Trời cũng thay đổi theo nhịp độ của thế giới. Nói cách khác, Đức Chúa Trời không tự hữu theo cách mặc định nhưng Ngài tiếp tục biến đổi và tùy thuộc vào vũ trụ, cho nên Ngài không tự hữu. Nói cách dễ hiểu như sau: Tôi nói rằng, cha tôi sinh tôi ra, nhưng ông ấy sẽ khen thưởng khi tôi thể hiện tốt, và ông ấy thường khiển trách khi tôi thể hiện kém-thiếu cho nên, tôi cho rằng cha tôi không tồn tại độc lập vì ông ta thay đổi tùy theo sự thay đổi của cá nhân tôi. Nói như thế là rất phi lý phải không, bởi vì cha tôi có thay đổi hành vi khen thưởng hay trừng phạt tôi thì điều đó cũng không thể phủ nhận sự hiện hữu và bản chất riêng của ông ấy. Ây vậy mà đây chính là cách giải thích phi-logic của Thần Học Tiệm Tiến về sự tự hữu của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, Đức Chúa Trời có thể hiện sự tha thứ khi chúng ta biết ăn năn, hoặc Ngài sửa phạt khi chúng ta phạm tội, nhưng không có nghĩa là Ngài không tự hữu hoặc sẽ thay đổi và hoàn thiện thêm hơn nhờ vào tạo vật của Ngài. Quan trọng hơn hết, chính Ngài xác nhận trong Xuất Ê-díp-tô Ký 3 rằng Ngài là Đấng Tự Hữu và Hằng Hữu. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu về một vấn đề quan trọng khác trong bản thể của Đức Chúa Trời đó chính là sự vô hạn của Ngài.


Khi chúng ta nói về sự vô hạn của Chúa là chúng ta đang nói về các thuộc tánh của Ngài như: toàn tri, toàn tại, toàn năng, và đời đời của Đức Chúa Trời. Khi bàn về điều này, một lần nữa chúng ta lại phải nói về Thần Học Tiệm Tiến bởi vì, họ cho rằng Đức Chúa Trời lệ thuộc vào thế giới, và thế giới biến đổi nên Ngài cũng biến đổi. Nói như thế là họ đã phủ nhận sự vô hạn của Đức Chúa Trời bởi vì, Ngài không cần phải bớt hay thêm điều gì vào bản thể của Ngài. Thậm chí, chúng ta cũng không thể hiểu hết về sự vô hạn của Đức Chúa Trời, trừ ra những gì mà Ngài bày tỏ cho chúng ta biết mà thôi. Như khi chúng ta nói Đức Chúa Trời toàn tri thì không có nghĩa là Ngài biết hết mọi sự như thông thường nhiều người nghĩ mà thôi, nhưng chúng ta còn muốn nói rằng, Ngài biết trước mọi sự nữa bởi vì, Ngài không bị giới hạn trong thời gian và không gian. Hoặc nói về sư toàn tại của Đức Chúa Trời thì không có nghĩa là Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mà thôi, nhưng mà Ngài còn tồn tại và hiện diện ở trong cả toàn cõi thời gian của chúng ta.


Tôi lấy ví dụ, khi tôi quan sát một con kiến đang di chuyển từ điểm A đến điểm C, và khi nó bò đến được điểm B (chính giữa), trong không gian và thời gian của con kiến thì từ B trở lại A chính là quá khứ của nó, còn từ B đến C là tương lai của nó. Tuy nhiên, đối với tôi thì trong suốt quá trình đó tôi đều nhìn thấy con kiến ở thời gian hiện tại của tôi. Bởi vì, tôi không thuộc về chiều kích không gian và thời gian với con kiến. Cũng vậy, chúng ta có quá khứ, hiện tại và tương lai, nhưng Đức Chúa Trời thì hiện diện bên ngoài chiều kích không gian của chúng ta. Cho nên, đối với Ngài không phân biệt quá khứ, hiện tại, và tương lai, và chúng ta gọi đó là sự toàn tại của Ngài trong toàn cõi thời gian và không gian. Ví dụ: Nếu tôi muốn đến tham dự một buổi nhóm tại Mỹ thì tôi không thể cùng tham dự một buổi nhóm khác ở Việt Nam. Thậm chí hai buổi nhóm diễn ra cùng một thời điểm, nhưng tính theo máy đo thời gian thì một bên sẽ trở thành thời gian của qua khứ (giờ Việt Nam đi trước Hoa Kỳ), nhưng đối với Chúa thì Ngài có thể hiện diện ở mọi nơi cùng một thời gian hiện tại.


Bây giờ, trở lại ví dụ về con kiến một chút, trong lúc nó đang di chuyển tiếp theo từ B đến C, tôi đã đưa tay ra chặn nói lại để nó khỏi bị một con chó đạp lên, lúc đó tôi đang hiện diện trong dòng thời gian của con Kiến, nhưng tôi vẫn hiện diện bên ngoài chiều kính không-gian của con kiến. Cũng như thế, khi Chúa can thiệp vào dòng lịch sử của nhân loại hoặc là “kinh nghiệm” của đời sống mỗi chúng ta thì Ngài đang ở trong dòng thời gian của chúng ta, nhưng Ngài vẫn ở một chiều kích khác-cao hơn chiều kính không gian của chúng ta. Vì thế, Ngài có tương tác với thế giới này, nhưng không có nghĩa là Ngài phụ thuộc vào thế giới này như phái Thần Học Tiệm Tiến đã giải thích. Ngược lại, chúng ta tin rằng Ngài là hữu ngã vì Ngài có “can thiệp” vào thế giới của chúng ta, nhưng đồng thời Ngài hoàn toàn tự hữu và vô hạn và thế giới này không làm thay đổi bất cứ thuộc tính nào của Ngài. Như tác giả Thi Thiên 102 nói thế giới này sẽ qua đi nhưng Chúa vẫn y-nguyên. Bây giờ chúng ta sẽ bước qua Chương 14 để tiếp cận với chủ đề tiếp theo trong bản thể của Đức Chúa Trời là những mỹ đức của Ngài nói theo từ ngữ của giáo lý, còn nói theo sách giáo khoa là những thuộc tính thiện hảo của Đức Chúa Trời.


Khi nói về những mỹ đức của Đức Chúa Trời thì trước tiên chúng ta phải nói đến sự thánh khiết của Ngài. Đối với một người thuộc Thần Học Chánh Thống thì không có điều gì cần phải bàn luận thêm về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, những trường phái thần học phi-chánh thống như Thần Học Tiệm Tiến, Tân Chánh thống, hay Thần Học Tự do thì nghi ngờ hoặc giải thích sai lạc về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Bởi vì, họ lập luận rằng, nếu Ngài là hoàn toàn thánh khiết một cách mặc định thì điều đó mâu thuẫn với bản tính yêu thương của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, họ cho rằng nếu Đức Chúa Trời hoàn toàn thánh khiết thì làm sao Ngài có thể yêu thương con người và thế giới đầy tội lỗi. Vì thế, điển hình là Thần Học Tiệm Tiến cho rằng hoặc là Ngài thay đổi hoặc là Ngài phát triển sự thánh khiết theo thời gian. Đối với Thần Học Tự do thì lại cho rằng Đức Chúa Trời là một mô hình lý tưởng cho tiêu chuẩn về luân lý đạo đức hơn là một sự thánh khiết tuyệt đối theo đúng nghĩa đen của nó. Còn đối với Thần Học Giải Phóng thì ngầm ý chấp nhận Đức Chúa Trời có “tính ác” để áp dụng cho sự trừng phạt của Chúa đối với kẻ thù, hoặc là đặt lại câu hỏi (nghi ngờ) về sự thánh khiết của Ngài đối với những bất công, đau khổ, và tội ác của thế giới này. Nói chung, những trường phái thần học nói trên đã không dựa và Kinh Thánh làm nền tảng nhưng dựa vào sự suy luận bởi triết học hoặc lịch sử, đôi lúc dựa vào tính nhân văn (Thần Học Giải Phóng) để diễn giải và làm phai nhạt hoặc xuyên tạc về tính thánh khiết tuyệt đối của Đức Chúa Trời.


Đối với Thần Học Chánh Thống thì chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời là thánh khiết tuyệt đối không phải vì những hành động của Ngài tỏ ra mà thôi, nhưng đó chính là bản thể của Ngài. Nghĩa là sự thánh khiết của Ngài không phải do du nhập từ bên ngoài, hoặc là do kiến tạo mà ra, cũng không phải là lý thuyết hay hình thức mang tính mô phạm. Nhưng, chính Ngài là sự sự thánh khiết. Chính vì Ngài có sự thánh khiết tuyệt đối cho nên chân lý đến từ Ngài là chính xác và đáng tin cậy. Tôi lấy ví dụ, người ta nói luật pháp của Hoa Kỳ là đáng để người dân tin cậy, bởi vì cơ quan công quyền hầu hết là rất liêm chính và công-minh. Hoặc nói ngược lại, luật pháp của Việt Nam là không đáng để người dân tin tưởng, vì cơ quan công quyền hoàn toàn là tham nhũng và bất công. Cũng giống như vậy, nếu Đức Chúa Trời không hoàn toàn thánh khiết như một số trường phái thần học (ở trên) đã tin, vậy thì họ cũng cho rằng chân lý của Ngài là không hoàn toàn có thẩm quyền tuyệt đối (đã nói trong tuần trước.) Ngược lại với các quan điểm đó, John Calvin xem sự thánh khiết của Chúa là chuẩn mực cho mọi quy luật đạo đức. Cùng với quan điểm của Calvin, nhà cải chánh Tin lành là Martin Luther nói rằng: “Đức Chúa Trời là Đấng hoàn toàn thánh khiết, vì vậy Ngài không thể chấp nhận bất cứ điều gì không trọn vẹn.” Nói như vậy có mâu thuẫn với mỹ đức yêu thương của Đức Chúa Trời như Thần Học Tự do suy luận hay không? Câu trả lời là không, ngược lại nó chính là cao trào để sự thánh khiết của Ngài được thể hiện. Ý tôi muốn nói rằng, mỹ đức của Đức Chúa Trời không chỉ có sự thánh khiết mà còn có sự công bình. Nói đến đây thì chúng ta đều biết quan điểm chánh thống cho rằng: Vì Chúa thánh khiết tuyệt đối nên Ngài không thể chấp nhận tội lỗi trừ khi là tội lỗi bị trừng phạt để thỏa mãn tính công bình của Ngài. Và, giải pháp cho điều này chính là Con Thánh của Đức Chúa Trời làm trọn sự công bình của Đức Chúa Trời qua sự Ngài chịu sự trừng phạt của tội lỗi thay cho con người. Cũng chính lẽ thật quan trọng này đã thể hiện cho chúng ta được biết về mỹ đức yêu thương và ân điển của Đức Chúa Trời.


Những người vô thần đặt câu hỏi về sự yêu thương của Đức Chúa Trời khi họ hỏi rằng: Đức Chúa Trời yêu thương thì tại sao có quá nhiều sự sai trật trên thế giới này như thiên tai, chiến tranh, tội ác xảy ra với những người vô tội. Thậm chí họ hỏi rằng: Chúa yêu thương dân Y-sơ-ra-en tại sao Ngài để cho Hitler diệt chủng dân Ngài, và đại loại những sự nghi ngờ về sự yêu thương của Chúa giống như vậy. Điển hình là David Hume là một triết gia vô thần đã phản biện về sự yêu thương của Đức Chúa Trời rằng, "Nếu Đức Chúa Trời sẵn lòng ngăn điều ác mà không có khả năng, thì Ngài không toàn năng. Nếu Ngài có khả năng mà không sẵn lòng, thì Ngài không thiện hảo. Nếu Ngài có khả năng và sẵn lòng, thì tại sao điều ác vẫn tồn tại?" Nghĩa là theo ý của David Hume là tại sao Ngài không tiêu diệt những người làm ác như Hitler. Khi nói như thế thì David Hume quên rằng, Đức Chúa Trời không làm điều gì ngược lại với thuộc tánh của Ngài, điều này có nghĩa là Ngài có khả năng ngăn điều ác, nhưng Ngài không thực hiện nó bằng một điều ác khác. Kinh thánh sách Gia-cơ 1 nói rằng, không có sự ác nào cám dỗ Đức Chúa Trời, nghĩa là không có một lý do gì khiến Ngài phải thực hiện một điều ác để thể hiện tình yêu thương như David Hume hay những người vô thần mong đợi.


David Hume cũng có ý nói rằng, vậy thì tại sao Chúa không ngăn chặn để Hitler không thực hiện sự ác của ông ta? Nói như thế thì David Hume lại quên rằng Đức Chúa Trời ban cho con người quyền tự do. Ngài không điều khiển hay ngăn trở con người hành động điều gì ngược lại với ý muốn của họ. Nói cách khác, Đức Chúa Trời tạo dựng con người và ban cho con người quyền tự do để chọn lựa điều ác và thánh thiện. Đồng thời, con người cũng phải chịu trách nhiệm về những hành động của họ, thay vì họ đổ lỗi cho Đức Chúa Trời. Ngược lại với cách đặt vấn đề của David Hume, Đức Chúa Trời ngăn chặn điều ác bằng tình yêu thương, đó chính là Ngài kêu gọi con người sống phải thánh khiết vì chính Ngài đã chết thay cho tội ác của họ. 

Bài đăng gần đây

Xem tất cả
SỰ QUAN PHÒNG CỦA CHÚA

Tổng Kết Tuần 6 Quý thầy cô thân mến! Vậy là chúng ta đã thảo luận Chương 19: Sự quan phòng của Chúa, và Chương 20: Thế giới và điều ác...

 
 
 
TÍNH NỘI TẠI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Quý thầy cô thân mến! Nếu quý thầy cô còn nhớ thì trong tuần trước tôi có lấy một ví dụ giữa tôi và con kiến: Trong khi tôi quan sát nó...

 
 
 

Bình luận


bottom of page